Tình hình kinh tế - xã hội thành phố Hải Phòng 6 tháng đầu năm 2022 có nhiều khởi sắc. Dịch bệnh Covid-19 đã được kiểm soát, hoạt động sản xuất, kinh doanh dần trở lại bình thường. Nhiều ngành, lĩnh vực có mức tăng trưởng khá so với cùng kỳ như: sản xuất công nghiệp, hàng qua cảng, thu ngân sách, thu hút FDI, thu hút khách du lịch bước đầu phục hồi và tăng trưởng; doanh nghiệp đăng ký thành lập mới tăng cả về số doanh nghiệp và số vốn đăng ký. Các chính sách an sinh xã hội được triển khai kịp thời, có hiệu quả; tình hình chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được giữ vững. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của căng thẳng địa chính trị, gián đoạn chuỗi cung ứng trên thế giới làm giá hàng hóa, nguyên vật liệu tăng cao khiến kinh tế Hải Phòng chịu ảnh hưởng không nhỏ. Kết quả 6 tháng đầu năm 2022 đạt được như sau:
c) Giáo dục, y tế, văn hóa và thể thao
Công tác giáo dục: Trong tháng 6/2022, thành phố đã tổ chức thành công kỳ thi tuyển sinh vào lớp 10 THPT năm học 2022-2023, công tác tổ chức kỳ thi tại 100% Hội đồng coi thi được triển khai đúng quy định, diễn ra an toàn và nghiêm túc, kỷ luật thi được siết chặt, các trường hợp vi phạm quy chế đều được xử lý nghiêm, các phương án bảo đảm an toàn trong thi cử được thực hiện nghiêm ngặt.
Công tác y tế dự phòng: Trong 6 tháng đầu năm 2022, tình hình dịch bệnh Covid-19 của thành phố diễn biến phức tạp gây ảnh hưởng tới sức khỏe cộng đồng, đời sống an sinh xã hội và tình hình kinh tế chung của toàn thành phố.
Tính đến ngày 25/6/2022, số ca hồi phục xuất viện là 325.208 ca; đang điều trị là 336 ca; số ca tử vong là 156 ca.
Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm: Trong 6 tháng đầu năm 2022, thực hiện 07 đợt kiểm tra, trong đó: 03 đợt kiểm tra định kỳ là Tết Nguyên đán, Bếp ăn tập thể, Tháng hành động an toàn thực phẩm; 04 đợt kiểm tra đột xuất. Kiểm tra được 234 cơ sở, trong đó: số cơ sở đạt là 188 cơ sở, số cơ sở vi phạm là 12 cơ sở; xử lý và phạt tiền 94,3 triệu đồng.
Số cơ sở được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện ATTP là 130 cơ sở. Hồ sơ tự công bố là 50 bộ; cấp giấy công bố sản phẩm: 6 giấy. Trong tháng 6 và 6 tháng đầu năm 2022, không có vụ ngộ độc thực phẩm xảy ra.
Công tác phòng chống HIV/AIDS: Ước tính 6 tháng đầu năm 2022, lũy tích người nhiễm HIV là 11.589 người; lũy tích số người chuyển sang AIDS là 6.347 người; lũy tích số người chết do AIDS là 5.379 người; số người nhiễm HIV hiện còn sống là 6.210 người.
Tính đến tháng 6/2022, Ngành y tế đang điều trị Methadone cho 2.759 bệnh nhân; đề án Thí điểm cấp phát thuốc Methadone nhiều ngày đã cấp cho 454 bệnh nhân tại 05 cơ sở điều trị.
Công tác văn hóa - thể thao: Thành phố đã tổ chức các Chương trình, Hội nghị theo kế hoạch công tác như: sơ kết công tác văn hóa, gia đình và thể dục thể thao năm 2022; phát động Cuộc thi sáng tác biểu tượng thành phố Hải Phòng tại Thành phố Hồ Chí Minh; sơ kết công tác triển khai thực hiện chương trình sân khấu truyền hình 6 tháng đầu năm và phương hướng nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2022; tổng kết các công tác tổ chức các hoạt động chào mừng các sự kiện trong tháng 5 năm 2022 và Lễ hội Hoa Phượng Đỏ - Hải Phòng 2022.
Trong 6 tháng đầu năm 2022, trên địa bàn thành phố đã xảy ra 32 vụ tai nạn giao thông đường bộ, 01 vụ tai nạn giao thông đường sắt. Các vụ tai nạn giao thông làm chết 31 người và bị thương 04 người. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông giảm 06 vụ với cùng kỳ năm ngoái (tương ứng giảm 15,38%), số người chết giảm 01 người so với cùng kỳ năm ngoái (tương ứng giảm 3,13%) và số người bị thương giảm 16 người năm ngoái (tương ứng giảm 80%).
e) Thiệt hại do thiên tai, bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ
Trong 6 tháng đầu năm 2022, trên địa bàn thành phố đã xảy ra 32 vụ cháy, giảm 14 vụ so với cùng kỳ năm trước (tương ứng giảm 30,43%), làm 01 người chết, không có người bị thương, nguyên nhân các vụ cháy chủ yếu do tình trạng bất cẩn trong cách sử dụng các thiết bị có nguy cơ cháy, nổ cao; một số vụ cháy thảm thực bì rừng gây thiệt hại ước tính là 8,1 ha, các vụ cháy khác đang trong quá trình điều tra, xác định giá trị thiệt hại về tài sản./.
1. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý II/2023 ước tính tăng 4,14% so với cùng kỳ năm trước, chỉ cao hơn tốc độ tăng 0,34% của quý II/2020 trong giai đoạn 2011-2023[1]. Trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,25%, đóng góp 8,53% vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 2,50%, đóng góp 23,63%; khu vực dịch vụ tăng 6,11%, đóng góp 67,84%.
GDP 6 tháng đầu năm 2023 tăng 3,72%, chỉ cao hơn tốc độ tăng 1,74% của 6 tháng đầu năm 2020 trong giai đoạn 2011-2023[2]. Trong mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,07%, đóng góp 9,28%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 1,13%, đóng góp 11,87%; khu vực dịch vụ tăng 6,33%, đóng góp 78,85%.
Trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, năng suất lúa đông xuân đạt khá, sản lượng một số cây lâu năm chủ yếu tăng so với cùng kỳ năm trước, chăn nuôi gia cầm phát triển ổn định, nuôi trồng thủy sản đạt kết quả khả quan. Giá trị tăng thêm ngành nông nghiệp 6 tháng đầu năm 2023 tăng 3,14% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 0,27 điểm phần trăm vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; ngành lâm nghiệp tăng 3,43% nhưng chiếm tỷ trọng thấp nên chỉ đóng góp 0,02 điểm phần trăm; ngành thủy sản tăng 2,77%, đóng góp 0,07 điểm phần trăm.
Trong khu vực công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp đối mặt với nhiều khó khăn trong bối cảnh chung của kinh tế thế giới. Giá trị tăng thêm ngành công nghiệp 6 tháng đầu năm 2023 tăng 0,44% so với cùng kỳ năm trước, là mức tăng thấp nhất của cùng kỳ các năm trong giai đoạn 2011-2023[3], đóng góp 0,15 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 0,37%[4], đóng góp 0,1 điểm phần trăm. Ngành sản xuất và phân phối điện tăng 1,79%, đóng góp 0,07 điểm phần trăm. Ngành khai khoáng giảm 1,43%, làm giảm 0,05 điểm phần trăm trong mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế. Ngành xây dựng tăng 4,74%, chỉ cao hơn tốc độ tăng 0,07%, 2,54% và 4,19% của cùng kỳ các năm 2011, 2012, 2022 trong giai đoạn 2011-2023, đóng góp 0,31 điểm phần trăm.
Các chính sách kích cầu tiêu dùng nội địa, các hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch được đẩy mạnh đã góp phần duy trì tăng trưởng của khu vực dịch vụ. Giá trị tăng thêm khu vực dịch vụ 6 tháng đầu năm 2023 tăng 6,33% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn mức tăng 1,18% và 4,53% của cùng kỳ các năm 2020 và năm 2021[5]. Trong khu vực dịch vụ, đóng góp của một số ngành có tỷ trọng lớn vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế như sau: Bán buôn và bán lẻ tăng 8,49% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 0,88 điểm phần trăm; ngành vận tải, kho bãi tăng 7,18%, đóng góp 0,45 điểm phần trăm; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 7,13%, đóng góp 0,4 điểm phần trăm; dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 15,14%, đóng góp 0,37 điểm phần trăm.
Về cơ cấu nền kinh tế 6 tháng đầu năm 2023, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 11,32%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 36,62%; khu vực dịch vụ chiếm 43,25%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 8,81% (Cơ cấu tương ứng của cùng kỳ năm 2022 là 11,21%; 38,00%; 41,85%; 8,94%).
Về sử dụng GDP 6 tháng đầu năm 2023, tiêu dùng cuối cùng tăng 2,68% so với cùng kỳ năm 2022, đóng góp 30,27% vào tốc độ tăng chung của toàn nền kinh tế; tích lũy tài sản tăng 1,15%, đóng góp 6,28%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ giảm 10,0%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ giảm 13,20%, chênh lệch xuất, nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ đóng góp 63,45%.
2. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
Diện tích gieo cấy lúa đông xuân cả nước năm 2023 đạt 2.952,5 nghìn ha, bằng 98,7% vụ đông xuân năm trước với năng suất ước đạt 68,4 tạ/ha, tăng 1,6 tạ/ha; sản lượng đạt 20,2 triệu tấn, tăng 231,9 nghìn tấn. Trong đó: Các địa phương phía Bắc đạt 1.067,7 nghìn ha, bằng 99%, năng suất đạt 64,4 tạ/ha, tăng 2,2 tạ/ha; sản lượng đạt đạt 6,9 triệu tấn, tăng 165,8 nghìn tấn; các địa phương phía Nam đạt 1.884,8 nghìn ha, bằng 98,5%, năng suất đạt đạt 70,8 tạ/ha, tăng 1,5 tạ/ha; sản lượng đạt 13,3 triệu tấn, tăng 66,1 nghìn tấn.
– Trong 6 tháng đầu năm 2023, sản lượng thu hoạch nhiều loại cây công nghiệp lâu năm tăng so với cùng kỳ năm 2022 do thời tiết thuận lợi và thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng hợp lý.
– Chăn nuôi: Chăn nuôi trâu, bò trong 6 tháng đầu năm 2023 phát triển ổn định. Chăn nuôi lợn và gia cầm phát triển tốt, dịch bệnh được kiểm soát.
Trong quý II/2023, diện tích rừng trồng mới tập trung ước đạt 87,3 nghìn ha, tăng 1,1% so với cùng kỳ năm trước; diện tích rừng bị thiệt hại là 913,4 ha, gấp 2,5 lần. Tính chung 6 tháng đầu năm 2023, diện tích rừng trồng mới tập trung ước đạt 125,5 nghìn ha, tăng 1,8% so với cùng kỳ năm trước; diện tích rừng bị thiệt hại là 1.168 ha, tăng 92,8%.
Sản lượng thủy sản quý II/2023 ước đạt 2.370,4 nghìn tấn, tăng 1,6% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm 2023, sản lượng thủy sản ước đạt 4.270,5 nghìn tấn, tăng 1,7% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Cá đạt 3.093,2 nghìn tấn, tăng 1,6%; tôm đạt 538,1 nghìn tấn, tăng 3,5%; thủy sản khác đạt 639,2 nghìn tấn, tăng 1,1%.
– Giá trị tăng thêm toàn ngành công nghiệp 6 tháng đầu năm 2023 ước tính tăng 0,44% so với cùng kỳ năm trước (quý I giảm 0,75%; quý II tăng 1,56%). Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 0,37% (quý I giảm 0,49%; quý II tăng 1,18%), đóng góp 0,10 điểm phần trăm vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế. Chỉ số sản xuất công nghiệp 6 tháng đầu năm 2023 so với cùng kỳ năm trước tăng ở 48 địa phương và giảm ở 15 địa phương trên cả nước.
– Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo 6 tháng đầu năm 2023 giảm 2,2% so với cùng kỳ năm 2022 (cùng kỳ năm 2022 tăng 9,4%).
– Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính tại thời điểm 30/6/2023 tăng 19,9% so với cùng thời điểm năm trước (cùng thời điểm năm trước tăng 14,1%). Tỷ lệ tồn kho toàn ngành chế biến, chế tạo bình quân 6 tháng đầu năm 2023 là 83,1% (bình quân 6 tháng đầu năm 2022 là 78%).
– Số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/6/2023 tăng 0,8% so với cùng thời điểm tháng trước và giảm 4,2% so với cùng thời điểm năm trước.
a) Tình hình đăng ký doanh nghiệp
– Trong tháng Sáu, cả nước có 13,9 nghìn doanh nghiệp thành lập mới, tăng 14,9% so với tháng trước và tăng 4,8% so với cùng kỳ năm trước; 7,1 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 19,3% và gấp 3,2 lần; 5.102 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, giảm 4,9% và giảm 0,5%; có 5.749 doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, tăng 21,9% và tăng 11,7%; có 1.482 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 21,2% và giảm 12,2%.
– Tính chung 6 tháng đầu năm 2023, cả nước có 75,9 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, giảm 0,5% so với cùng kỳ năm trước; gần 37,7 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, giảm 7,4%; 60,2 nghìn doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn; 31 nghìn doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, tăng 28,9%; 8,8 nghìn doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 2,8%.
b) Xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp
Kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong quý II/2023 cho thấy có 27,5% số doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh tốt hơn so với quý I/2023 và dự kiến quý III/2023, có 34,3% số doanh nghiệp đánh giá xu hướng sẽ tốt lên so với quý II/2023.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Sáu ước đạt 505,7 nghìn tỷ đồng, tăng 0,5% so với tháng trước và tăng 6,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong quý II/2023, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 1.520,2 nghìn tỷ đồng, tăng 1,6% so với quý trước và tăng 8,7% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm 2023, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá hiện hành ước đạt 3.016,8 nghìn tỷ đồng, tăng 10,9% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2022 tăng 12,2%), nếu loại trừ yếu tố giá tăng 8,44%, tương đương cùng kỳ năm 2022.
Vận tải hành khách tháng 6/2023 ước đạt 355,5 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 2,9% so với tháng trước và luân chuyển 19,8 tỷ lượt khách.km, tăng 3,1%. Tính chung 6 tháng đầu năm 2023, vận tải hành khách ước đạt 2.178,8 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 15,9% so với cùng kỳ năm trước và luân chuyển đạt 118,4 tỷ lượt khách.km, tăng 32,4%. Vận tải hàng hóa tháng 6/2023 ước đạt 186,4 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 0,7% so với tháng trước và luân chuyển 39,4 tỷ tấn.km, tăng 3,3%. Tính chung 6 tháng đầu năm 2023, vận tải hàng hóa ước đạt 1.109 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 15,9% so với cùng kỳ năm trước và luân chuyển 232,5 tỷ tấn.km, tăng 14,8%.
Doanh thu hoạt động viễn thông quý II/2023 ước đạt 87,1 nghìn tỷ đồng, tăng 3,6% so với cùng kỳ năm trước (nếu loại trừ yếu tố giá tăng 0,7%). Tính chung 6 tháng đầu năm 2023, doanh thu hoạt động viễn thông ước đạt 174 nghìn tỷ đồng, tăng 3,3% so với cùng kỳ năm trước (nếu loại trừ yếu tố giá tăng 0,5%).
Khách quốc tế đến Việt Nam tháng 6/2023 đạt 975 nghìn lượt người, tăng 6,4% so với tháng trước và gấp 4,1 lần cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm 2023, khách quốc tế đến nước ta ước đạt gần 5,6 triệu lượt người, gấp 9,3 lần cùng kỳ năm trước nhưng vẫn chỉ bằng 65,7% so với cùng kỳ năm 2019 – năm chưa xảy ra dịch Covid-19.
Số lượt người Việt Nam xuất cảnh trong tháng 6/2023 là 447,4 nghìn lượt người, gấp 2,1 cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm 2023, số lượt người Việt Nam xuất cảnh đạt gần 2,4 triệu lượt người, gấp 4 lần cùng kỳ năm trước.
6. Hoạt động ngân hàng, bảo hiểm, thị trường chứng khoán
– Tính đến thời điểm 20/6/2023, tổng phương tiện thanh toán tăng 2,53% so với cuối năm 2022; huy động vốn của các tổ chức tín dụng tăng 3,26%; tăng trưởng tín dụng đạt 3,58%[6].
– Tổng doanh thu phí bảo hiểm quý II/2023 ước đạt 61,3 nghìn tỷ đồng, giảm 3,12% so với cùng kỳ năm 2022; tính chung 6 tháng đầu năm 2023, tổng doanh thu phí bảo hiểm ước đạt 117 nghìn tỷ đồng, giảm 1,62%.
– Tính từ đầu năm đến nay, giá trị giao dịch bình quân trên thị trường cổ phiếu đạt 13.118 tỷ đồng/phiên, giảm 35,7% so với bình quân năm 2022; giá trị giao dịch bình quân trên thị trường trái phiếu đạt 5.596 tỷ đồng/phiên, giảm 27,2%; khối lượng giao dịch bình quân trên thị trường chứng khoán phái sinh đạt 243.037 hợp đồng/phiên, giảm 11%.
Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội quý II/2023 theo giá hiện hành ước đạt 774,9 nghìn tỷ đồng, tăng 5,5% so với cùng kỳ năm trước. Ước tính 6 tháng năm 2023, vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội theo giá hiện hành ước đạt 1.357,7 nghìn tỷ đồng, tăng 4,7% so với cùng kỳ năm trước. Vốn đầu tư thực hiện của khu vực nhà nước tăng 12,6% cho thấy sự quyết tâm nỗ lực của Chính phủ, bộ ngành và địa phương trong việc quyết liệt đẩy mạnh thực hiện nguồn vốn đầu tư công nhằm tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cả trong ngắn hạn và dài hạn.
Tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Việt Nam tính đến ngày 20/6/2023 bao gồm vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 13,4 tỷ USD, giảm 4,3% so với cùng kỳ năm trước. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tại Việt Nam 6 tháng đầu năm 2023 ước đạt 10,02 tỷ USD, tăng 0,5% so với cùng kỳ năm trước.
Đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài trong 6 tháng đầu năm 2023 có 60 dự án được cấp mới giấy chứng nhận đầu tư với tổng số vốn của phía Việt Nam là 147 triệu USD, giảm 51,2% so với cùng kỳ năm trước; có 16 lượt dự án điều chỉnh vốn tăng 173,7 triệu USD, gấp 3,9 lần. Tính chung tổng vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài (vốn cấp mới và điều chỉnh) đạt 320,6 triệu USD, giảm 7,3% so với cùng kỳ năm trước.
Tổng thu ngân sách Nhà nước tháng 6/2023 ước đạt 93,5 nghìn tỷ đồng. Lũy kế tổng thu ngân sách Nhà nước 6 tháng đầu năm 2023 đạt 875,8 nghìn tỷ đồng, bằng 54% dự toán năm và giảm 7,8% so với cùng kỳ năm trước.
Tổng chi ngân sách Nhà nước tháng 6/2023 ước đạt 155,9 nghìn tỷ đồng, lũy kế 6 tháng đầu năm 2023 đạt 804,6 nghìn tỷ đồng, bằng 38,8% dự toán năm và tăng 12,9% so với cùng kỳ năm trước.
9. Xuất, nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ
– Xuất khẩu hàng hóa: Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng 6/2023 ước đạt 29,3 tỷ USD, tăng 4,5% so với tháng trước và giảm 11,4% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm 2023, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước đạt 164,45 tỷ USD, giảm 12,1% so với cùng kỳ năm trước.
– Nhập khẩu hàng hóa: Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng 6/2023 ước đạt 26,71 tỷ USD, tăng 2,6% so với tháng trước và giảm 16,9% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm 2023, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa ước đạt 152,2 tỷ USD, giảm 18,2% so với cùng kỳ năm trước
– Về thị trường xuất, nhập khẩu hàng hóa 6 tháng đầu năm 2023, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước đạt 44,2 tỷ USD. Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước đạt 50,1 tỷ USD.
– Cán cân thương mại hàng hóa tháng Sáu ước tính xuất siêu 2,59 tỷ USD. Tính chung 6 tháng đầu năm 2023, cán cân thương mại hàng hóa ước tính xuất siêu 12,25 tỷ USD (cùng kỳ năm trước xuất siêu 1,2 tỷ USD).
Trong quý II năm 2023, kim ngạch xuất khẩu dịch vụ ước đạt 4,4 tỷ USD, tăng 58,8% so với cùng kỳ năm 2022; kim ngạch nhập khẩu dịch vụ ước đạt 6,7 tỷ USD, giảm 3,1% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm 2023, kim ngạch xuất khẩu dịch vụ ước đạt 8,8 tỷ USD, tăng 99,5% so với cùng kỳ năm 2022; kim ngạch nhập khẩu dịch vụ ước đạt 12,9 tỷ USD (trong đó đã tính trong phí dịch vụ vận tải và bảo hiểm của hàng hóa nhập khẩu là 3,8 tỷ USD), giảm 0,8% so với cùng kỳ năm trước. Nhập siêu dịch vụ 6 tháng đầu năm 2023 là 4,1 tỷ USD.
10. Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la Mỹ
– Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 6/2023 tăng 0,27% so với tháng trước. So với tháng 12/2022, CPI tháng Sáu tăng 0,67% và so với cùng kỳ năm trước tăng 2%. CPI bình quân quý II/2023 tăng 2,41% so với cùng kỳ năm trước; bình quân 6 tháng đầu năm 2023, CPI tăng 3,29%; lạm phát cơ bản tăng 4,74%.
– Chỉ số giá vàng tháng 6/2023 giảm 0,64% so với tháng trước; tăng 3,3% so với tháng 12/2022; tăng 0,95% so với cùng kỳ năm trước; bình quân 6 tháng đầu năm 2023 tăng 0,67%.
– Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 6/2023 tăng 0,14% so với tháng trước; giảm 2,23% so với tháng 12/2022; tăng 1,14% so với cùng kỳ năm trước; bình quân 6 tháng đầu năm 2023 tăng 2,61%.
Tình hình lao động, việc làm quý II năm 2023 có xu hướng tăng nhưng thị trường lao động, việc làm tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức chủ yếu do các doanh nghiệp thiếu đơn hàng sản xuất; đời sống của hộ dân cư trong 6 tháng đầu năm 2023 được cải thiện. Công tác an sinh xã hội tiếp tục được các cấp từ trung ương đến địa phương quan tâm thực hiện.
Lao động có việc làm quý II/2023 tăng 691,4 nghìn người so với cùng kỳ năm trước; tỷ lệ thất nghiệp là 2,3%. Tính chung 6 tháng đầu năm 2023, lao động có việc làm tăng 902 nghìn người so với cùng kỳ năm trước; tỷ lệ thất nghiệp là 2,27%, giảm 0,12 điểm phần trăm.
Tính đến ngày 19/6/2023, theo Nghị định 20/2021/NĐ-CP ngày 15/3/2021 đã tổ chức thăm hỏi, động viên và tặng quà cho các đối tượng bảo trợ xã hội gần 1,79 nghìn tỷ đồng; hộ nghèo, hộ cận nghèo là gần 2,8 nghìn tỷ đồng; người có công, thân nhân người có công với cách mạng là hơn 3,8 nghìn tỷ đồng; hỗ trợ đột xuất, bất thường phát sinh tại địa phương là 65,4 tỷ đồng. Ngoài ra, bảo hiểm xã hội đã cấp phát hơn 26,5 triệu thẻ BHYT/sổ/thẻ khám chữa bệnh miễn phí cho các đối tượng thụ hưởng./.
[1] Tốc độ tăng GDP quý II so với cùng kỳ năm trước các năm 2011-2023 lần lượt là: 6,25%; 5,56%; 5,39%; 6,19%; 7,11%; 6,74%; 6,66%; 7,1%; 7,16%; 0,34%; 6,58%; 7,83%; 4,14%.
[2] Tốc độ tăng GDP 6 tháng đầu năm so với cùng kỳ năm trước các năm 2011-2023 lần lượt là: 6,1%; 5,25%; 5,03%; 5,86%; 6,68%; 6,13%; 5,93%; 7,43%; 7,12%; 1,74%; 5,76%; 6,46%; 3,72%.
[3] Tốc độ tăng giá trị tăng thêm ngành công nghiệp 6 tháng đầu năm so với cùng kỳ năm trước các năm trong giai đoạn 2011-2023 lần lượt là: 8,54%; 7,79%; 4,5%; 4,95%; 8,74%; 6,63%; 5,30%; 8,59%; 8,22%; 2,26%; 8,15%; 8,36%; 0,44%.
[4] Tốc độ tăng giá trị tăng thêm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo 6 tháng đầu năm so với cùng kỳ năm trước các năm trong giai đoạn 2011-2023 lần lượt là: 11,96%; 8,3%; 4,95%; 5,73%; 8,63%; 9,77%; 8,62%; 10,73%; 9,64%; 3,04%; 10,84%; 9,49%; 0,37%.
[5] Tốc độ tăng giá trị tăng thêm khu vực dịch vụ 6 tháng đầu năm so với cùng kỳ năm trước của các năm 2011-2023 lần lượt là: 7,31%; 6,58%; 6,39%; 7,15%; 6,83%; 7,19%; 6,75%; 7,75%; 7,44%; 1,18%; 4,53%; 6,74%; 6,33%.
[6] Cập nhật theo thông tin Ngân hàng Nhà nước Việt Nam gửi ngày 30/6/2023.
[7] Ước tính tổng trị giá xuất khẩu, nhập khẩu tháng 6/2023 do Tổng cục Hải quan cung cấp ngày 27/6/2023. Tổng cục Thống kê ước tính trị giá xuất, nhập khẩu một số mặt hàng chủ yếu tháng 3/2023 dựa trên số liệu sơ bộ về trị giá xuất, nhập khẩu một số mặt hàng chủ yếu đến hết ngày 25/6/2023 do Tổng cục Hải quan cung cấp.
Năm 2023 là năm giữa nhiệm kỳ, năm bản lề triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX, các nghị quyết, chính sách giai đoạn 2021-2025, năm có ý nghĩa quan trọng trong việc đẩy mạnh thực hiện các mục tiêu nhiệm vụ Kế hoạch 5 năm 2021-2025. Trong quý II cũng như 6 tháng vừa qua, việc triển khai thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn Hà Tĩnh có nhiều thuận lợi song cũng gặp không ít khó khăn thách thức. Dịch Covid-19 được kiểm soát, hoạt động sản xuất, kinh doanh diễn ra trong điều kiện thời tiết thuận lợi ...tuy nhiên lạm phát toàn cầu mặc dù đã hạ nhiệt nhưng vẫn ở mức cao; hầu hết các nước vẫn thắt chặt chính sách tiền tệ; sự phục hồi chậm và suy giảm nhu cầu tiêu dùng của các đối tác thương mại lớn đã ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình trình sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng của người dân và doanh nghiệp.
Trong bối cảnh đó, Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai quyết liệt các nhiệm vụ, giải pháp ngay từ đầu năm. Trong đó, đẩy mạnh tháo gỡ khó khăn vướng mắc cho sản xuất, kinh doanh; đẩy nhanh tiến độ các dự án công nghiệp lớn; tập trung cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi phát triển. Tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh tháng 6 và 6 tháng đầu năm 2023 mặc dù còn nhiều khó khăn nhưng nhìn chung tiếp tục xu hướng phục hồi và đạt những kết quả khả quan.
1. Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP)
Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) theo giá hiện hành 6 tháng đầu năm 2023 ước đạt 44.952 tỷ đồng (trong đó tính riêng quí II ước đạt 23.592 tỷ đồng) tăng 3.116 tỷ đồng so với cùng kỳ năm trước, xếp thứ 3/6 tỉnh Bắc trung bộ và xếp thứ 33/63 tỉnh, thành phố trong cả nước.
Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) theo giá so sánh quí II năm 2023 ước tăng 6,01% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn so với mức tăng trưởng quí I (tăng 3,95%). Trong đó, khu vực Nông, lâm nghiệp, thủy sản tăng 3,28%, đóng góp 9,99 % vào mức tăng trưởng chung; khu vực Công nghiệp, xây dựng tăng 6,52%, đóng góp 39,19 %; khu vực Dịch vụ tăng 6,88% đóng góp 41,77 %; thuế sản phẩm trừ trở cấp sản phẩm tăng 5,98%, đóng góp 9,05 %.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2023, tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) 2023 theo giá so sánh ước tăng 5,02% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực Nông, lâm nghiệp, thủy sản tăng 2,81%, đóng góp 8,14 % vào mức tăng trưởng chung; khu vực Công nghiệp, xây dựng tăng 4,19%, đóng góp 32,46 %; khu vực Dịch vụ tăng 6,82% đóng góp 49,59 %; thuế sản phẩm trừ trở cấp sản phẩm tăng 4,87%, đóng góp 9,81 %.
Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tiếp tục thể hiện vai trò bệ đỡ của nền kinh tế, vừa bảo đảm vững chắc an ninh lương thực, vừa nâng cao đời sống nhân dân. Sản xuất lúa vụ Đông Xuân năm nay thắng lợi cả về năng suất và sản lượng ở tất cả các địa phương trong tỉnh. Hoạt động chăn nuôi phục hồi, sản xuất lâm nghiệp, thủy sản vẫn tiếp tục duy trì ổn định và có mức tăng nhẹ so với cùng kỳ năm trước. 6 tháng đầu năm 2023, ngành nông nghiệp tăng 2,45%, đóng góp 0,3 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn tỉnh; ngành lâm nghiệp tăng 4,86% nhưng chiếm tỷ trọng thấp nên chỉ đóng góp 0,05 điểm phần trăm; ngành thủy sản tăng 4,44%, đóng góp 0,06 điểm phần trăm.
Trong khu vực công nghiệp, xây dựng, ngành công nghiệp Hà Tĩnh đóng vai trò đầu tàu, là động lực chính trong tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên 6 tháng đầu năm 2023, hoạt động sản xuất tiếp tục gặp khó khăn, sản xuất một số doanh nghiệp chủ lực sụt giảm. Tăng trưởng toàn ngành ước đạt 1,41%, đóng góp 0,44 điểm % vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn tỉnh, trong đó ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 0,13%, làm giảm 0,03 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 8,61%, làm giảm 0,02% điểm phần trăm; ngành khai khoáng giảm 24,64%, làm giảm 0,14%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 8,11%, đóng góp 0,64 điểm phần trăm. Riêng ngành xây dựng tăng 15,64%, đóng góp 1,19 điểm phần trăm, đây là mức tăng trưởng cao nhất của ngành này kể từ đầu nhiệm kỳ đến nay. Nguyên nhân hiện nay trên địa bàn tỉnh nhiều công trình, dự án lớn đang được đây nhanh tiến độ thi công.
Khu vực dịch vụ 6 tháng đầu năm 2023 thể hiện rõ sự phục hồi so với cùng kỳ năm trước nhờ hiệu quả của các chính sách kích cầu tiêu dùng nội địa, chính sách mở cửa nền kinh tế sau khi dịch Covid-19 được kiểm soát. Đóng góp của một số ngành dịch vụ thị trường có tỷ trọng lớn vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm toàn tỉnh như sau: Ngành bán buôn, bán lẻ tăng 9,72% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 0,68 điểm phần trăm; ngành vận tải kho bãi tăng 11,18%, đóng góp 0,42 điểm phần trăm; ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 14,77%, đóng góp 0,28 điểm phần trăm; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 7,46%, đóng góp 0,23 điểm phần trăm; riêng ngành y tế và hoạt động trợ giúp xã hội giảm 5,37%, làm giảm 0,06 điểm phần trăm do dịch Covid-19 đã được kiểm soát nên chi cho phòng, chống dịch bệnh giảm so với cùng kỳ năm 2022.
Về cơ cấu kinh tế 6 tháng đầu năm 2023 khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 15,64%, giảm 0,1 điểm % so với cùng kỳ năm 2022; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 36,58%, giảm 1,37 điểm % (trong đó, ngành Công nghiệp chiếm 28,35%, giảm 2,18 điểm %; ngành xây dựng chiếm 8,23%, tăng 0,81 điểm %); khu vực Dịch vụ chiếm 37,89%; tăng 1,42 điểm %; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 9,89%, tăng 0,05 điểm % so với cùng kỳ năm trước.
2. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản 6 tháng đầu năm 2023 diễn ra trong điều kiện thời tiết khá thuận lợi, kết quả thu hoạch vụ Đông - Xuân thắng lợi cả về năng suất và sản lượng, cây lúa đạt năng suất cao nhất từ trước đến nay. Các dịch bệnh đối với chăn nuôi cơ bản được kiểm soát, việc tái đàn và phục hồi chăn nuôi đang tiếp tục được thực hiện. Hoạt động lâm nghiệp vẫn tiếp tục triển khai trồng rừng tập trung và khai thác gỗ từ rừng trồng, tuy nhiên, thời điểm tháng 5,6 cuối vụ điều kiện thời tiết nắng nóng nên diện tích trồng rừng tập trung giảm hơn so với tháng trước nhưng vẫn ở mức tăng so với cùng kỳ năm trước. Hoạt động thủy sản có nhiều khởi sắc khi ngành du lịch hoạt động sôi động trở lại, nhu cầu về thủy hải sản tăng cao nên khuyến khích người dân ra khơi bám biển.
Tháng 6/2023, toàn tỉnh đang tập trung sản xuất gieo cấy lúa vụ Hè Thu năm 2023. Tính chung 6 tháng đầu năm 2023, hoạt động trồng trọt chủ yếu là chăm sóc và thu hoạch các loại cây trồng vụ Đông Xuân 2022-2023 với kết quả toàn tỉnh gieo trồng các loại cây hàng năm sơ bộ đạt 98.853 ha, bằng 99,59% (giảm 404 ha) so với cùng kỳ năm trước. Tổng sản lượng lương thực có hạt sơ bộ đạt 412.768 tấn, so với thực hiện cùng kỳ năm trước bằng 107,69% (tăng 29.488 tấn). Kết quả cụ thể đối với một số cây trồng chủ lực như sau: Diện tích lúa sơ bộ đạt 59.394 ha, giảm 419 ha, năng suất lúa sơ bộ đạt 59,85 tạ/ha, tăng 3,98 tạ/ha, sản lượng lúa 355.467 tấn, tăng 21.901 tấn so với cùng kỳ năm trước; diện tích lạc sơ bộ đạt 7.585 ha, giảm 1.241 ha, sản lượng lạc sơ bộ đạt 20.886 tấn giảm 631 tấn so với cùng kỳ; diện tích ngô sơ bộ đạt 11.934 ha, tăng 1.222 ha, sản lượng ngô sơ bộ đạt 57.300 tấn, tăng 7.586 tấn so với cùng kỳ năm trước.
Nhìn chung, kết quả sản xuất vụ Đông Xuân năm này dù có một số loại cây trồng giảm sản lượng do giảm diện tích gieo trồng như lạc, khoai lang... bù lại là năm cây lúa thắng lợi về năng suất và sản lượng, đạt năng suất cao nhất từ trước đến nay. Đạt được kết quả đó là nhờ sự tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, xây dựng kế hoạch sản xuất sát đúng với tình hình thực tiễn, cùng với việc bà con tuân thủ theo lịch thời vụ; quá trình sinh trưởng, phát triển trong điều kiện thời tiết thuận ngay từ đầu vụ đến giai đoạn lúa trỗ, mặc dù gặp thời tiết mưa nắng đan xen, chênh lệch nhiệt độ lớn thuận lợi cho bệnh đạo ôn cổ bông gây hại, song nhờ quyết liệt trong công tác tuyên truyền, hướng dẫn phun phòng nên đồng ruộng không phát sinh ổ dịch. Bên cạnh đó, vụ Đông Xuân năm nay nhiều giống lúa mới năng suất, chất lượng được đưa vào sản xuất (Năm nay, một số giống lúa chất lượng gạo ngon như giống BT09, BQ, Thiên ưu 8, ADI, Bắc Hương 9 đã được một số huyện đưa vào cơ cấu giống chủ lực cho người dân gieo cấy) cùng với hiệu quả của các cánh đồng mẫu lớn cũng đã góp phần vào nâng cao năng suất, chất lượng lúa.
Tiến độ sản xuất vụ Hè Thu năm 2023: Với quan điểm chỉ đạo sản xuất vụ Hè Thu năm 2023 là huy động cả hệ thống chính trị vào cuộc linh hoạt trong tổ chức chỉ đạo, né tránh thiên tai, phấn đấu sản xuất vụ Hè Thu an toàn, hiệu quả, góp phần hoàn thành mục tiêu kinh tế - xã hội năm 2023. Tính đến ngày 14/6/2023, ước tính toàn tỉnh gieo cấy được 44.429 ha lúa vụ Hè Thu bằng 99,78% (giảm 97 ha) so với cùng kỳ năm trước, đạt 98,97% kế hoạch, có 9/13 huyện, thị xã đã hoàn thành kế hoạch gieo cấy. Với nhiệm vụ, giải pháp chống hạn cho các loại cây trồng vụ Hè Thu trong điều kiện thời tiết nắng nóng, khô hạn xảy ra: huy động tối đa mọi nguồn lực để tổ chức rà soát nguồn nước tại các hồ đập, bằng các giải pháp tập trung cấp đủ nước tưới cho lúa, cây trồng cạn kịp thời với phương châm tiết kiệm, hiệu quả; đồng thời theo dõi chặt chẽ diễn biến của các dịch bệnh gây hại trên cây trồng.
Tổng diện tích hiện có cây lâu năm 6 tháng đầu năm 2023 ước đạt 31.545 ha, bằng 99,44% giảm 179 ha so với cùng kỳ năm 2022, trong đó: Diện tích cây ăn quả ước đạt 19.347 ha, bằng 99,35%, giảm 127 ha. Diện tích một số loại cây có biến động mạnh như cây cam giảm 301 ha, bưởi tăng 198 ha, còn lại các cây khác biến động không đáng kể. Nguyên nhân do thời gian qua thực hiện chủ trương chuyển đổi lại cơ cấu cây trồng theo hướng hiệu quả kinh tế, xác định cây ăn quả có múi (cam, bưởi) là cây trồng chủ lực mang lại hiệu quả kinh tế cao cho những vùng miền núi phía tây tỉnh Hà Tĩnh, nên người dân đầu tư phát triển ồ ạt. Nhưng hiện nay cho chi phí đầu tư quá lớn, giá cả phân bón, ngày công tăng mạnh, thiên tai, sâu bệnh, trong khi đó sản phẩm sản xuất ra khó tiêu thụ, bị tư thương ép giá (nhất là ở cây cam) nên nhiều hộ dân đã dần chuyển hướng sang trồng các loại cây khác. Các loại cây công nghiệp lâu năm khác có biến động không đáng kể, cụ thể: diện tích cây cao su ước đạt 8.461 ha, bằng 99,96%, giảm 3 ha so với cùng kỳ năm 2022. Diện tích chè búp ước đạt 1.258 ha, tăng 16 ha, diện tích trồng chè búp đang ngày một tăng lên, mở rộng thêm do cây trồng này phù hợp điều kiện thổ nhưỡng, sản phẩm dễ tiêu thụ, có lợi nhuận.
6 tháng đầu năm 2023, sản lượng cây ăn quả ước đạt 34.668 tấn, bằng 100,66% tăng 228 tấn so với cùng kỳ năm 2022, trong đó: sản lượng các loại quả nhiệt đới và cận nhiệt đới ước đạt 20.335 tấn, bằng 101,20%, tăng 241 tấn, do điều kiện thời tiết thuận lợi, mặt khác không ngừng đưa các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp, công tác chọn giống từng bước được coi trọng nên các loại cây ăn quả cho năng suất cao, đặc biệt sản lượng tăng chuối tăng 115 tấn, ổi tăng 113 tấn, mít tăng 68 tấn...; sản lượng các loại quả có múi thuộc họ cam, quýt ước đạt 13.847 tấn, bằng 99,84%, giảm 22 tấn do giảm diện tích trồng cây. Sản lượng cao su ước đạt 1.291tấn, bằng 103,53%, tăng 44 tấn; sản lượng chè búp ước đạt 5.684 tấn, tăng 98 tấn…. Nguyên nhân do thời tiết khá thuận lợi sản lượng tăng khá, giá bán ổn định hơn so với những năm trước.
*Tình hình sâu bệnh, thiên tai: Hiện nay các loại cây trồng vụ Hè Thu năm 2023 mới được gieo trồng, chưa xuất hiện các loại sâu bệnh gây hại. Đối với cây ăn quả thì Sâu vẽ bùa, sâu nhớt 70 ha; Sâu đục thân, đục cành 25 ha; nhện nhỏ 35 ha, phân bố tại Hương Sơn, Vũ Quang, Hương Khê,…các đối tượng như rệp muội, bọ xít, gây hại rải rác trên những vườn hộ lâu năm.
Sản xuất chăn nuôi 6 tháng đầu năm 2023 ổn định và tiếp tục có bước phát triển hơn so với cùng kỳ năm trước. Các dịch bệnh đối với chăn nuôi cơ bản được kiểm soát, việc tái đàn và phục hồi chăn nuôi đang tiếp tục được thực hiện, tổng đàn lợn và đàn gia cầm tăng nhẹ, sản lượng xuất chuồng các loại gia súc và gia cầm đều tăng. Tuy nhiên, do giá bán thịt hơi trâu, bò giảm mạnh nên người dân không mở rộng quy mô chăn nuôi đã làm cho tổng đàn trâu, bò đang có xu thế giảm so với cùng kỳ năm trước. Việc cung ứng các sản phẩm chăn nuôi đáp ứng đầy đủ nhu cầu tiêu dùng thực phẩm của người dân trên địa bàn, nhất là nhu cầu tăng cao trong dịp Tết.
Nhìn chung, lượng cung các sản phẩm chăn nuôi trên địa bàn tỉnh tương đối dồi dào, giá cả ổn định, không xẩy ra hiện tượng khan hàng và tăng giá thực phẩm chăn nuôi. Tuy nhiên, trong khi giá bán sản phẩm không tăng nhưng giá thức ăn và các chi phí chăn nuôi đang tăng cao là khó khăn và rào cản lớn đối với hoạt động chăn nuôi trên địa bàn trong thời gian qua cũng như thời gian tới.
Tình hình dịch bệnh, thiệt hại: Theo báo cáo của Chi cục Chăn nuôi và Thú y Hà Tĩnh, từ đầu năm đến nay, các loại dịch bệnh truyền nhiễm như Viêm da nổi cục trên trâu bò, dịch tả lợn Châu Phi, Dịch Lở mồm long móng gia súc phát sinh với mức độ cục bộ, nhỏ lẻ, được khoanh vùng, khống chế ở diện hẹp. (Viêm da nổi cụcxảy ra tại 30 hộ chăn nuôi của 06 xã, phường thuộc huyện Thạch Hà, Thị xã Hồng Lĩnh và Thành phố Hà Tĩnh, làm cho 35 con bò mắc bệnh, trong đó có 04 con bị chết, tiêu hủy, khối lượng 324 kg; Lở mồm long móng: xảy ra tại 09 hộ chăn nuôi của 02 xã, phường thuộc huyện Kỳ Anh và Thị xã Kỳ Anh, làm cho 22 con trâu bò mắc bệnh; Dịch tả lợn Châu Phi xảy ra tại 13 hộ chăn nuôi của 02 xã thuộc huyện Cẩm Xuyên và Đức Thọ, làm cho 65 con lợn mắc bệnh, tiêu hủy với khối lượng 1.789 kg. Đến nay trên địa bàn tỉnh không xảy ra các loại dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm trên gia súc, gia cầm.
Công tác tiêm phòng cho đàn gia súc, gia cầm đạt tỷ lệ thấp so với kế hoạch đề ra, nhất là công tác tiêm phòng cho đàn trâu, bò, cụ thể kết quả tiêm phòng đợt I năm 2023 tính đến ngày 12/6/2023: Tiêm phòng lở mồm long móng cho đàn trâu, bò 3.783 liều và chỉ đạt 2,9% kế hoạch; bệnh tụ huyết trùng trâu, bò đạt 3.015 liều, chỉ đạt 2,3% kế hoạch; bệnh viêm da nổi cục trâu, bò đạt 70.428 liều, đạt 61,0% kế hoạch; dịch tả lợn 231.830 liều, đạt gần 82% kế hoạch; tụ huyết trùng lợn 231.539 liều, đạt 81,9% kế hoạch; tiêm phòng dại cho chó 80.062 con, đạt 76% kế hoạch. Đến ngày 19/6/2023 Chi cục Chăn nuôi và Thú y Hà Tĩnh đã cung ứng 60.575 liều vắc xin lở mồm long móng và 35.475 liều vắc xin tụ huyết trùng để tiêm phòng bổ sung cho đàn trâu, bò. Nhưng việc triển khai tiêm phòng chậm một phần cũng do kinh phí mua vắc xin lở mồm long móng trên trâu, bò do ngân sách Nhà nước hỗ trợ, phải trải qua quá trình đấu thầu nên thời gian phân bổ, tổ chức tiêm phòng bổ sung muộn hơn so với kế hoạch; vắc-xin phòng dại trên chó thiếu nguồn cung thương mại trên toàn quốc nên làm chậm tiến độ theo kế hoạch đề ra. Nhiều địa phương có tâm lý chờ vắc xin lở mồm long móng rồi mới tổ chức tiêm cho tất cả các loại bệnh một lần. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến quá trình phòng, chống dịch bệnh trên đàn vật nuôi toàn tỉnh trong thời gian tới.
Hoạt động sản xuất lâm nghiệp trong tháng 6/2023 vẫn tiếp tục triển khai trồng rừng tập trung và khai thác gỗ từ rừng trồng. Tuy nhiên, do cuối vụ và điều kiện thời tiết nắng nóng nên diện tích trồng rừng tập trung giảm mạnh so với tháng trước (giảm 250 ha), nhưng vẫn tăng hơn so với cùng kỳ năm trước (tăng 36 ha); sản lượng gỗ khai thác trong tháng 6/2023 tăng 8.008 m3 so với tháng trước và tăng 1.408 m3 so với cùng kỳ năm trước.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2023, diện tích rừng tập trung và sản lượng gỗ khai thác đều tăng so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân do sản lượng gỗ phụ thuộc vào chu kỳ khai thác rừng trồng và hoạt động trồng rừng tập trung cũng chủ yếu là rừng sản xuất nên sau khi khai thác sẽ có quỹ đất để tiếp tục trồng mới. Còn đối với trồng cây phân tán và khai thác củi thì do quỹ đất trồng cây ngày càng thu hẹp và nhu cầu sử dụng củi làm chất đốt giảm nên số lượng cây trồng phân tán và sản lượng củi khai thác giảm.
Công tác bảo vệ rừng và quản lý lâm sản luôn được các cấp, các ngành quan tâm thực hiện. Tính từ đầu năm đến ngày 15/6/2023, trên địa bàn Hà Tĩnh xảy ra một vụ cháy rừng ở huyện Lộc Hà với diện tích bị cháy là hơn 0,79 ha. Bên cạnh đó đã có xảy ra 45 vụ phá rừng (giảm 7 vụ), với diện tích rừng bị phá là 15,12 ha (giảm 9,26 ha) so với cùng kỳ năm trước. Hiện nay đang bước vào mùa nắng nóng nên các cơ quan chức năng cần phải tăng cường tuần tra kiểm soát và người dân khi vào rừng cần phải nâng cao ý thức để phòng chống cháy rừng.
Tháng 6 cũng như 6 tháng đầu năm 2023, hoạt động sản xuất thủy sản trên địa bàn tỉnh vẫn ổn định, sản lượng khai thác và nuôi trồng đều tăng. Nghề khai thác thủy sản ngày càng khẳng định được vai trò trong việc tạo làm cho ngư dân, tạo sản phẩm hàng hóa lớn có giá trị xuất khẩu và góp phần giữ vững an ninh trật tự chủ quyền biển đảo của Tổ quốc. Nghề khai thác chủ yếu của các đội tàu là lưới rê, câu, vó, mành, vây, lồng bẫy, chụp mực… tại các vùng biển đăng ký hoạt động. Nhiều tàu thuyền đánh bắt ở ngư trường vùng lộng, gần bờ đều cho thu nhập khá, mỗi chuyến biển có thể thu hàng chục triệu đồng. Ngoài ra, rất nhiều tàu thuyền trúng đậm sò lông và các loại nhuyễn thể, mang lại nguồn lợi kinh tế lớn cho ngư dân. Đây là những tín hiệu tích cực để khuyến khích ngư dân tăng cường khai thác hải sản trong thời gian tới. Đồng thời, gắn sản xuất với bảo vệ môi trường, nguồn lợi thủy sản.Thực hiện tốt công tác đăng ký, đăng kiểm tàu cá và các phương án đảm bảo an toàn cho người, tàu cá hoạt động trên biển để ngư dân yên tâm vươn khơi bám biển.
Tình hình dịch bệnh: Từ đầu năm đến nay, đối với tôm nuôi bệnh đốm trắng xảy ra với diện tích 32,19 ha tại 07 xã, thuộc 05 huyện; Bệnh hoại tử gan tụy cấp tính xẩy ra tại xã Yên Hòa, huyện Cẩm Xuyên với diện tích 2,5 ha và bệnh Vi bào tử trùng (EHP) xẩy ra tại xã Thạch Hải, huyện Thạch Hà với diện tích 0,32 ha. Khi bệnh xảy ra, các ngành chức năng đã cùng với người nuôi tôm xác định tác nhân gây bệnh, tiến hành dập dịch nhằm không để dịch bệnh lây lan, đến nay các loại dịch bệnh trên thủy sản đã qua 15 ngày.
Sản xuất công nghiệp 6 tháng đầu năm 2023 tiếp tục gặp khó khăn do ảnh hưởng của nền kinh tế thế giới, nhu cầu thị trường chưa phục hồi nên đã ảnh hưởng đến sản xuất trong nước. Đặc biệt một số ngành mũi nhọn của địa phương vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn do giá cả nguyên liệu đầu vào, thị trường tiêu thụ và sự cố hỏng tua bin máy phát của Tổ máy số 1 của nhà máy Nhiệt điện Vũng Áng I từ năm 2021 đến nay vẫn chưa được khắc phục. Chỉ số sản xuất công nghiệp 6 tháng đầu năm 2023 dự ước giảm 0,61% so với cùng kỳ năm trước.
3.1 Chỉ số sản xuất ngành công nghiệp (IIP).
Ước tính tháng 6/2023, chỉ số sản xuất ngành công nghiệp so với tháng 5/2023 tăng 0,88%, so với cùng kỳ năm trước giảm 1,79%. Trong đó: Ngành công nghiệp khai khoáng tăng 4,36% so với tháng trước và tăng 18,17% so với cùng kỳ năm trước; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 1,83% so với tháng trước, so với cùng kỳ năm trước tăng 3,47%; ngành sản xuất và phân phối điện giảm 4,64% so tháng trước và tăng 7,26% so cùng kỳ năm trước; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 1,43% so với tháng trước, tuy nhiên so với cùng kỳ năm trước ngành này giảm 7,83%.
Quí II năm 2023 hoạt động sản xuất công nghiệp lấy lại được đà tăng trưởng so với quí trước. Chỉ số sản xuất công nghiệp quí II ước tăng 0,21%, cao hơn so với quí I/2023 (giảm 1,49%). Trong đó: Ngành công nghiệp khai khoáng tăng 1,83% so với cùng kỳ năm trước; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 1,9%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 14,47%; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 0,98%.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2023, hoạt động sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh vẫn đang gặp khó khăn khi có 3/4 nhóm ngành công nghiệp cấp 1 có chỉ số giảm so với cùng kỳ, lượng thép tồn kho vẫn ở mức cao (trên 300 ngàn tấn) do thị trường tiêu thụ thiếu ổn định; tổ máy số 1 của nhà máy nhiệt điện I đến nay vẫn chưa hoạt động trở lại, lượng Bia SX vẫn chưa đạt công suất thiết kế đã làm giảm điểm % tăng trưởng chung toàn ngành. Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp ước tính giảm 0,61% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Ngành công nghiệp khai khoáng giảm 3,74%, làm giảm 0,04 điểm phần trăm; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 1,72% làm giảm 1,17 điểm phần trăm (là ngành đóng góp chủ yếu vào mức tăng chung toàn ngành công nghiệp); ngành sản xuất và phân phối điện tăng 8,38%, làm tăng 1,06 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải giảm 7,83%, làm giảm 0,16 điểm phần trăm vào mức tăng chung toàn ngành.
3.2 Tình hình hoạt động một số ngành chiếm tỷ trọng lớn
Trong 18 nhóm ngành công nghiệp cấp 2, có 03 nhóm ngành có chỉ số sản xuất cộng dồn 6 tháng đầu năm 2023 tăng so với cùng kỳ năm trước: ngành khai khoáng khác tăng 1,12%, ngành sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 7,04%, ngành sản xuất và phân phối điện tăng 8,38%.
Bên cạnh một số ngành có chỉ số sản xuất (IIP) tăng thì vẫn còn nhiều ngành có chỉ số giảm như: Ngành khai khoáng quặng kim loại giảm 51,28%; sản xuất chế biến thực phẩm giảm 2,92%; sản xuất đồ uống giảm 1,27%; ngành dệt giảm 2,99%; sản xuất trang phục giảm 9,07%; chế biến gỗ giảm 9,34%; sản xuất giấy giảm 3,84%; in ấn giảm 5,62%; sản xuất than cốc giảm 9,43%, sản xuất thuốc, hóa dược liệu giảm 9,2%; sản xuất giường tủ bàn ghế giảm 7,33%, cung cấp nước giảm 7,83%.
3.3 Chỉ số tiêu thụ, tồn kho, tình hình sử dụng lao động trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo.
Chỉ số tiêu thụ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tháng 6/2023 tăng 2,82% so với tháng trước và tăng 32,43% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng đầu 2023, chỉ số tiêu thụ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 5,1% so với cùng kỳ. Như vậy, tính chung 6 tháng đầu năm 2023, nhu cầu tiêu thu sản phẩm công nghiệp giảm so với cùng kỳ, cho thấy hoạt động sản xuất và tiêu thụ sản phẩm công nghiệp trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh gặp khó khăn hơn so với cùng kỳ.
Chỉ số tồn kho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo. Ước tính tháng 6/2023 tăng 30,22% so với tháng trước và tăng 35,77% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số tồn kho tăng so với cùng kỳ chủ yếu là do tồn kho từ ngành sản xuất thức ăn gia súc, gia cầm tăng 160,89%, sản xuất bia tồn kho tăng 149,05%, cưa xẻ gỗ tăng 56,77%, than cốc tăng 38,12%, kim loại đúc sẵn tăng 32,35%...do nguồn tiêu thụ giảm nên chỉ số hàng tồn kho tăng so với cùng kỳ năm trước.
Ngoài ra, một số sản phẩm có chỉ số tồn kho giảm so với cùng kỳ như: chế biến thủy sản giảm 9,99%, sản xuất giấy giảm 55,64%, sản xuất giường tủ bàn ghế giảm 65,41%...
Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp trong tháng 6/2023 tương đối ổn định, không có sự thay đổi nhiều so với tháng trước. Lao động của toàn ngành công nghiệp tháng 6/2023 tăng 0,12% so với tháng 5/2023, tuy nhiên so với cùng kỳ năm trước giảm 7,55% và cộng dồn 6 tháng đầu năm giảm 7,74%. Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp 6 tháng đầu năm 2023 giảm so với cùng kỳ chủ yếu là do lao động ngành khai khoáng, lao động ngành công nghiệp chế biến, chế tạo và sản xuất phân phối điện.
4. Tình hình thu hút đầu tư, phát triển doanh nghiệp
Tính từ đầu năm đến nay Hà Tĩnh đã chấp thuận chủ trương đầu tư 10 dự án đầu tư trong nước với tổng mức gần 1.254 tỷ đồng, số dự án tương đương nhưng số vốn bằng 42% so với cùng kỳ năm trước. Đặc biệt trong tháng 5/2023 vừa qua, Hà Tĩnh đã tổ chức thành công Hội nghị công bố Quy hoạch tỉnh và xúc tiến đầu tư với sự tham gia của gần 800 đại biểu, doanh nghiệp, nhà đầu tư trong và ngoài nước; trao quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư cho 15 dự án với tổng vốn hơn 9.600 tỷ đồng, ký kết biên bản ghi nhớ hợp tác đầu tư 36 dự án với quy mô gần 220.000 tỷ đồng. Tiếp tục kết nối, làm việc, xúc tiến đầu tư với các tập đoàn lớn trong phát triển hạ tầng khu công nghiệp, du lịch, thể thao, giáo dục, chuyển đổi số như VSIP, Silk Path, FPT, Sun Group.
4.2. Tình hình đăng ký kinh doanh
Thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TU ngày 22/11/2021 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về đổi mới, phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động doanh nghiệp đến năm 2025 và những năm tiếp theo. Thời gian vừa qua, Hà Tĩnh tiếp tục tập trung chỉ đạo, tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc liên quan đến hồ sơ, thủ tục; triển khai các giải pháp đẩy mạnh phát triển doanh nghiệp, kịp thời thông tin, tháo gỡ các khó khăn cho các doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh. Tuy nhiên do hệ lủy tác động từ dịch Covitd-19 cùng với đó là sự tác động tiêu cực từ lạm phát, suy thoái nền kinh tế thế giới, lãi suất ngân hàng tăng cao đã ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình trình sản xuất, kinh doanh, sinh hoạt, tiêu dùng của người dân và các doanh nghiệp..vv. Vì vậy số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập mới vẫn không đạt như kỳ vọng. Cụ thể, tính đến ngày 15/6/2023 toàn tỉnh có 554 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với vốn đăng ký gần 2.200 tỷ đồng, giảm 14% số lượng và 57% số vốn; 223 doanh nghiệp hoạt động trở lại, giảm 9%; 101 doanh nghiệp giải thể, tăng 51%; 379 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động, tăng 23%; doanh nghiệp kê khai phát sinh thuế đạt dưới 40%.
4.3. Xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp
Qua khảo sát các doanh nghiệp cho thấy bước sang quý III củng như 6 tháng cuối năm 2023, các doanh nghiệp nhận định sản xuất kinh doanh có xu hướng tăng lên và ổn định sản xuất hơn. Cụ thể:
*Nhận định quý III so với quý II
Các doanh nghiệp dự báo xu hướng về tình hình sản xuất kinh doanh quý III/2023 tăng hơn so quý II/2023 khi có 34,88% doanh nghiệp nhận định SXKD quý III sẽ tốt hơn và 37,21% giữ ổn định so với quý II; 27,91% số doanh nghiệp dự báo tình hình sản xuất vẫn tiếp tục gặp khó khăn hơn quý trước.
Quý III/2023 có tới 41,86% doanh nghiệp dự báo tăng khối lượng sản xuất, 32,56% dự báo giữ nguyên và chỉ có 16,28% số doanh nghiệp nhận định giảm khối lượng sản xuất.
Số lượng đơn đặt hàng xuất khẩu mới sẽ thuận lợi và doanh nghiệp cố gắng duy trì số lượng đơn đặt hàng như quý trước (75% nhận định tăng lên và giữ nguyên như quý II); chỉ có 25% doanh nghiệp dự báo số lượng đơn đặt hàng xuất khẩu giảm hơn so với quý II/2023.
Tỷ trọng số doanh nghiệp nhận định lượng tồn kho thành phẩm tăng lên đã giảm xuống còn 16,28%. Trong khi có 51,16% doanh nghiệp dự báo vẫn giữ nguyên như cũ và 32,56% doanh nghiệp nhận định số lượng tồn kho thành phẩm sẽ giảm đi so với quý II/2023.
Dự báo có 83,72% doanh nghiệp khẳng định giữ ổn định số lao động, bên cạnh đó có 9,3% số doanh nghiệp dự kiến tăng số lao động và 6,98% doanh nghiệp dự kiến giảm số lao động.
Tỷ lệ doanh nghiệp dự báo xu hướng về khối lượng sản xuất ngành chế biến, chế tạo 6 tháng tiếp theo có xu hướng tăng lên chiếm tỷ trọng lớn (41,86% doanh nghiệp); tỷ lệ doanh nghiệp dự báo giữ nguyên là 34,88% và có 23,26% doanh nghiệp cho rằng 6 tháng tiếp theo khối lượng sản xuất ngành chế biến, chế tạo sẽ giảm đi so với hiện tại.
Tỷ lệ doanh nghiệp dự báo xu hướng về số lượng đơn đặt hàng mới ngành chế biến chế tạo 6 tháng tiếp theo tăng lên chiếm tỷ trọng lớn nhất (41,46%). Trong khi đó dự báo xu hướng giảm đi chỉ chiếm 24,39%. Tương tự số lượng đơn đặt hàng xuất khẩu mới sẽ tăng lên và giữ nguyên trong 6 tháng tiếp theo chiếm tỷ lệ cao (76,47%).
Với tình hình thực tế hiện nay, các doanh nghiệp vẫn nhận định và dự báo số lượng lao động 6 tháng tiếp theo vẫn tiếp tục giữ nguyên nhằm ổn định sản xuất của doanh nghiệp. Tỷ lệ doanh nghiệp dự báo giữ nguyên số lao động trong 6 tháng tiếp theo chiếm đến 69,77%, trong khi đó tỷ lệ doanh nghiệp dự báo sẽ tăng lao động chiếm 20,93% và có 9,3% tỷ lệ doanh nghiệp cho rằng sẽ giảm số lượng lao động.
5.1.Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng:
Nửa đầu năm 2023, tình hình kinh tế trong nước và trên thế giới tiếp tục gặp khó khăn, bên cạnh yếu tố thất thường của thời tiết thì giá các mặt hàng thiết yếu như điện, xăng dầu đều đang có xu hướng tăng. Tuy nhiên, nhờ những giải pháp kích cầu du lịch cũng như thực hiện chính sách thuế, tín dụng ưu đãi, hỗ trợ lãi suất hợp lý của địa phương. Vì vậy, các ngành thương mại, dịch vụ, du lịch trên địa bàn tỉnh vẫn hoạt động ổn định và đạt doanh thu cao, đảm bảo bảo phục hồi phát triển kinh tế - xã hội theo Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30/01/2022 của Chính phủ.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa: Dự ước tháng 6/2023 đạt 4.969,13 tỷ đồng, tăng 3,18% so với tháng trước và tăng 11,71% so với cùng kỳ năm trước. Một số nhóm ngành có doanh thu biến động tăng mạnh so với cùng kỳ như: Vật phẩm văn hóa giáo dục dù giảm hơn so với tháng trước 8,77% nhưng so với cùng kỳ vẫn ở mức tăng 86,78%, nguyên nhân do đang trong thời gian nghỉ hè nên nhu cầu nhóm hàng này giảm xuống, tuy nhiên do giá mặt hàng nhóm này đang ở mức cao nên so cùng kỳ vẫn tăng mạnh; Gỗ và vật liệu xây dựng tăng 3,05% so với tháng trước, tăng 39,27% so với cùng kỳ năm trước do việc các gói vay ưu đãi dành cho hoạt động xây dựng nhà ở, cộng với việc thời tiết phù hợp cho việc xây dựng. Bên cạnh đó, giá vật liệu xây dựng đang ở mức cao khiến tổng doanh thu nhóm vật liệu xây dựng tăng; Xăng, dầu các loại tăng 1,73% so với tháng trước, tăng 35,17% so với cùng kỳ năm trước, việc giá xăng, dầu ở mức cao và được điều chỉnh tăng qua các kỳ điều chỉnh gần nhất là yếu tố chính tác động khiến doanh thu bán lẻ nhóm hàng này tăng. Bên cạnh những nhóm hàng có doanh thu tăng mạnh, thì có 2 nhóm hàng có doanh thu giảm khá sâu đó là nhóm ô tô con và nhóm phương tiện đi lại khác, do đây là các mặt hàng có giá trị lớn người tiêu dùng hạn chế việc tiêu dùng ở các nhóm hàng này.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2023, tổng mức bán lẻ hàng hóa ước đạt 28.542,29 tỷ đồng, tăng 18,04% so với cùng kỳ năm trước. Việc tổng mức bán lẽ tăng cao trong 6 tháng qua là do dịch bệnh Covid-19 được kiểm soát, ảnh hưởng của dịch đến nền kinh tế hạn chế. Tuy vậy, hoạt động của các cơ sở bán lẻ hàng hóa trên địa bàn tỉnh vẫn còn gặp những khó khăn nhất định như: Sự suy thoái chung của tình hình kinh tế thế giới và kinh tế trong nước khó khăn. Lãi suất tín dụng ở mức cao, một lượng lớn vốn tín dụng đang bị mắc kẹt tại thị trường bất động sản trong khi vốn sản xuất kinh doanh gặp khó khăn. Bên cạnh đó, hoạt động bán lẻ truyền thống của các đơn vị trong tỉnh đang phải cạnh tranh khốc liệt với các chuỗi siêu thị, cửa hàng tiện tích, hệ thống siêu thị mini và hình thức bán lẻ hàng trực tuyến; chuỗi cung ứng hàng hóa còn phụ thuộc nhiều vào thị trường Trung Quốc dẫn đến nguồn cung một số hàng hóa hạn chế do tình hình nhập khẩu gặp khó khăn khiến giá bán lẻ tăng cao.
Dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành: Hoạt động lưu trú, ăn uống, du lịch đạt được nhiều thành tựu, tăng trưởng ổn định nhờ những chính sách phát triển đúng đắn của chính quyền địa phương với những hoạt động kích cầu du lịch như tổ chức các lễ hội, các hoạt động khai trương mùa du lịch biển tại hầu hết các địa phương có biển. Ước tháng 6/2023 doanh thu dự tính đạt 718,08 tỷ đồng, tăng 8,94% so với tháng trước, tăng 29,82% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Dịch vụ lưu trú ước đạt 42,68 tỷ đồng, tăng 63,63% so với tháng trước, tăng 58,28% so với cùng kỳ năm trước; Dịch vụ ăn uống ước đạt 669,95 tỷ đồng, tăng 6,67% so với tháng trước, tăng 28,32% so với cùng kỳ năm trước; Du lịch lữ hành và hoạt động hỗ trợ du lịch ước đạt 5,46 tỷ đồng, tăng 8,36% so với tháng trước tăng 34,71% so với cùng kỳ năm trước.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2023, doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành ước đạt 3.567,25 tỷ đồng, tăng 26,01% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Lưu trú ước đạt 147,93 tỷ đồng, tăng 31,76% với lượt khách phục vụ 884.511 lượt, tăng 21,62%; ngày khách phục vụ 736.021 ngày, tăng 23,70% so với cùng kỳ năm trước; Ăn uống ước đạt 3.395,65 tỷ đồng, tăng 25,26%; du lịch lữ hành ước đạt 23,67 tỷ đồng, tăng 191,93% so với cùng kỳ năm trước. Hoạt động dịch vụ lưu trú, ăn uống và lữ hành trên địa bàn tỉnh phát triển mạnh, các đơn vị kinh doanh ngày càng đầu tư nâng cao chất lượng dịch vụ để phục vụ, đáp ứng tốt hơn yêu cầu của khách hàng. Hiện nay đang là thời điểm mùa du lịch Hà Tĩnh đặc biệt là du lịch biển với những bãi biển đẹp như Thiên Cầm, Thạch Hải, Xuân Hải, Xuân Thành…, lượng khách đến các bãi biển, khu nghỉ dưỡng bắt đầu tăng mạnh so với các tháng đầu năm. Ngoài số lượng khách nội tỉnh, khách du lịch ngoại tỉnh đến với Hà Tĩnh cũng bắt đầu tăng lại như thời điểm trước dịch. Cùng với đó là sự thuận lợi về đường giao thông, phương tiện đi lại; chất lượng của các cơ sở lưu trú ngày càng được chú trọng, đó là những yếu tố khiến cho doanh thu lưu trú trong tháng tăng cao so với tháng trước và so với cùng kỳ năm trước
Dịch vụ khác: Các hoạt động dịch vụ như chăm sóc da, làm đẹp, cắt tóc, gội đầu; dịch vụ dọn vệ sinh nhà cửa đã khôi phục và trở lại trạng thái bình thường như thời điểm trước dịch, chưa kể việc chi phí tăng khiến giá các mặt hàng khác tăng kéo theo doanh thu nhóm này tăng. Cùng với đó là hoạt động xây dựng đang có nhiều khởi sắc, kéo theo là sự phát triển của dịch vụ san lấp mặt bằng, cho thuê máy móc, vệ sinh công trình…Doanh thu dịch vụ khác tháng 6/2023 ước đạt 348,53 tỷ đồng tăng 1,51% so với tháng trước và tăng 6,92% so với cùng kỳ năm trước.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2023 doanh thu dịch vụ khác ước đạt 2.128,56 tỷ đồng, tăng 20,38% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, chỉ có nhóm Y tế và hoạt động trợ giúp xã hội là giảm so với cùng kỳ và giảm 5,81%. Còn lại các nhóm hàng khác đều có doanh thu tăng, cụ thể: Kinh doanh bất động sản tăng 18,50%; hành chính và dịch vụ hỗ trợ tăng 38,66%; giáo dục đào tạo tăng 10,17%; nghệ thuật, vui chơi và giải trí tăng 20,55%; dịch vụ khác tăng 7,95% so với cùng kỳ năm trước.
Hoạt động vận tải 6 tháng đầu năm 2023 có doanh thu tăng mạnh so với cùng kỳ năm trước. Nhu cầu sử dụng phương tiện giao thông công cộng và taxi để đi lại của người dân tăng lên, cùng với nhu cầu và lượng khách du lịch tăng đột biến so với cùng kỳ năm trước đã góp phần làm gia tăng giá trị từ hoạt động vận tải hành khách. Nhu cầu vận chuyển hàng hóa cũng tăng mạnh do trên địa bàn tỉnh đang đẩy nhanh thi công những công trình trọng điểm như cao tốc Bắc Nam, nhà máy Nhiệt điện 2,… nên các doanh nghiệp, cơ sở vận tải hàng hóa, cho thuê máy móc đạt doanh thu cao.
Kết quả vận tải, kho bãi tháng 6/2023 doanh thu ước đạt 615,24 tỷ đồng, tăng 1,30% so tháng trước và tăng 15,15% so cùng kỳ năm trước. Trong đó: Vận tải hành khách doanh thu ước đạt 88,20 tỷ đồng, tăng 4,64% so với tháng trước và tăng 26,45% so với cùng kỳ năm trước; vận tải hàng hóa ước đạt 396,27 tỷ đồng, tăng 1,01% so với tháng trước và tăng 13,93% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải ước đạt 113,89 tỷ đồng, giảm 1,34% so với tháng trước và giảm 1,58% so với cùng kỳ năm trước. Chủ yếu do những nguyên nhân sau: (1) Do thời tiết nắng nóng, nhu cầu sử dụng phương tiện công cộng tăng, cùng với đó địa phương đang thực hiện gắt gao việc giám sát nồng độ cồn đối với người điều khiển phương tiện giao thông nên nhu cầu sử dụng dịch vụ taxi, cho thuê xe có người lái tăng. Cũng là tháng trùng với thời điểm nghỉ hè và mùa du lịch nên lượng khách đi lại nội, ngoại tỉnh tăng cao. (2)Do thời tiết thuận lợi cho các công trình xây dựng, san lấp mặt bằng thực hiện thi công nên nhu cầu sử dụng phương tiện vận tải hàng hóa tăng. Nhu cầu xây dựng, sửa sang nhà cửa trong nhân dân tăng cùng với việc đẩy mạnh công tác chỉnh trang đô thị, nhiều dự án đang được triển khai đầu tư nên nhu cầu vận chuyển vật liệu xây dựng tăng.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2023 doanh thu vận tải, kho bãi ước đạt 3.388,7 tỷ đồng, tăng 12,54% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Vận tải hành khách ước đạt 492,65 tỷ đồng, tăng 41,67%; số lượng hành khách vận chuyển ước đạt 6.103,4 nghìn HK, tăng 49,90% và luân chuyển đạt 1.163,6 triệu HK.km, tăng 67,85% so với cũng kỳ năm trước; Vận tải hàng hóa ước đạt 2.206,25 tỷ đồng, tăng 11,57%; khối lượng vận chuyển ước đạt 24.244,4 nghìn tấn, tăng 13,33% và luân chuyển ước đạt 745,5 triệu tấn.km, tăng 7,48% so với cùng kỳ năm trước. Doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải ước đạt 596,49 tỷ đồng, giảm 12,34% so với cùng kỳ năm trước. Nhìn chung hoạt động vận tải 6 tháng đầu năm 2023 có sự phát triển ổn định, các cơ sở vận tải tuân thủ tải trọng và lượng hành khách trên xe, hạ tầng giao thông cũng được đầu tư xây dựng, rất nhiều tuyến đường được nâng cấp sửa chữa phục vụ vận chuyển hành khách và hàng hóa trên địa bàn. Đường cao tốc Bắc Nam cũng đang được tỉnh quan tâm chú trọng thúc đẩy tiến độ. Hệ thống cảng biển nước sâu Vũng Áng - Sơn Dương cùng với hoạt động sản xuất ổn định trở lại của nhà máy Gang thép Formosa là một trong những động lực và là điều kiện lớn thúc đẩy sự phát triển cho dịch vụ kho bãi, hỗ trợ vận tải, trở thành đầu mối trung chuyển hàng hóa và dịch vụ vận tải, kho bãi của tỉnh Hà Tĩnh. Tuy nhiên so với cùng kỳ doanh thu vận tải kho bãi giảm mạnh do ảnh hưởng của lượng hàng hóa thông qua cảng Sơn Dương
Thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh 6 tháng đầu năm 2023 gặp nhiều khó khăn; hoạt động sản xuất của một số doanh nghiệp chủ lực sụt giảm so với cùng kỳ, thị trường bất động sản chững lại, một số chính sách miễn giảm thuế của Nhà nước làm giảm thu ngân sách trên địa bàn tỉnh. Chi ngân sách Nhà nước cơ bản đáp ứng kịp thời các nhiệm vụ đầu tư phát triển, chi thường xuyên, bảo đảm quốc phòng, an ninh, phục hồi nền kinh tế.
Thu ngân sách nhà nước (đã loại trừ hoàn thuế) tính đến ngày 15/6/2023 đạt 6.575,54 tỷ đồng (giảm 35,64% so với cùng kỳ). Trong đó, thu nội địa đạt 4.112,48 tỷ đồng (chiếm 62,54 % trong tổng thu) giảm 8,7% so với cùng kỳ. Một số sắc thuế thu đạt thấp như: Các khoản thu về nhà đất đạt 611,12 tỷ đồng giảm 60,89%; thu từ doanh nghiệp nhà nước đạt 373,25 tỉ đồng, giảm 26,44%; thu phí, lệ phí đạt 248,65 tỉ đồng giảm 32,04%; thuế thu nhập cá nhân giảm 182,29 tỉ đồng giảm 40,55 %; thuế bảo vệ môi trường đạt 216,62 tỉ đồng giảm 36,06% … Nguyên nhân đạt thấp hơn so với cùng kỳ chủ yếu do thuế bảo vệ môi trường giảm do áp dụng chính sách giảm 50% mức thuế bảo vệ môi trường theo Nghị quyết 30/2022/UBTVQH15 ngày 30/12/2022 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; sự chững lại của thị trường mua bán, chuyển nhượng bất động sản đã làm cho nguồn thu tiền sử dụng đất, thuế thu nhập cá nhân cũng đạt thấp. Bên cạnh đó từ đầu năm đến nay, ngành Thuế Hà Tĩnh tập trung thực hiện chính sách thuế, tín dụng ưu đãi, hỗ trợ lãi suất phục hồi phát triển kinh tế xã hội theo Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30/01/2022 của Chính phủ. Tuy nhiên, ngoài các sắc thuế có số thu đạt thấp 6 tháng đầu năm 2023 thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 1.806,73 tỉ đồng tăng 103,37% so với cùng kỳ năm trước nhờ có khoản thu thêm từ thuế thu nhập doanh nghiệp sau thanh tra. Thu cân đối hoạt động xuất nhập khẩu đạt 2.408,31 tỷ đồng (chiếm 50,96% tổng thu) giảm 54,27% so với cùng kỳ, nguyên nhân chủ yếu do Công ty TNHH Gang thép Hưng nghiệp Formosa gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh nên hạn chế việc nhập khẩu nguyên vật liệu đầu vào.
Chi ngân sách nhà nước cơ bản đáp ứng các nhiệm vụ đã bố trí trong dự toán và các nhiệm vụ đột xuất quan trọng về phát triển KT-XH, QP-AN của địa phương. Tổng chi ngân sách nhà nước tính đến ngày 15/6/2023 đạt 10.089,49 tỷ đồng tăng 10,47% so với cùng kỳ. Trong cơ cấu nguồn chi thì chi đầu tư phát triển đạt 4.683,25 tỷ đồng chiếm 46,42% tổng chi, tăng 18,34% so với cùng kỳ; chi thường xuyên đạt 5.355,40 tỷ đồng chiếm 53,08% tổng chi, tăng 4,73% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, một số khoản chi tác động lớn vào tăng trưởng kinh tế như: Chi sự nghiệp giáo dục đào tạo dạy nghề đạt 1.734,55 tỷ đồng tăng 4,53%; Chi sự nghiệp y tế, dân số kế hoạch hóa gia đình đạt 406,66 tỉ đồng tăng 0,89%; chi quản lý hành chính, Đảng, đoàn thể đạt 1.109,70 tỷ đồng tăng 1,92%.
6 tháng đầu năm 2023 tăng trưởng tín dụng trên địa bàn tỉnh ước đạt 6,88% so với cuối năm 2022, mặc dù tăng trưởng tín dụng chưa đạt so với kỳ vọng nhưng đã thể hiện được sự nỗ lực của ngành Ngân hàng Hà Tĩnh trong việc đáp ứng nhu cầu vốn trên địa bàn và góp phần phục hồi kinh tế xã hội, trong bối cảnh trong sức hấp thụ vốn của nền kinh tế thấp. Công tác huy động vốn được các tổ chức tín dụng trên địa bàn đẩy mạnh ngay từ đầu năm. Với việc triển khai nhiều chính sách hiệu quả, nguồn vốn huy động trên địa bàn có sự tăng trưởng tốt.
Tổng nguồn vốn huy động ước đến đến 30/6/2023 đạt 91.600 tỷ đồng, tăng 8,70% so với cuối năm 2022. Trong đó, nguồn vốn huy động trung, dài hạn đạt 12.752 tỷ đồng, chiếm 13,92% tổng nguồn vốn huy động, tăng 8,7% so với cuối năm 2022; nguồn vốn huy động ngắn hạn đạt 78.848 tỷ đồng, chiếm 86,08%, tăng 7,27% so với cuối năm 2022. Tiền gửi tiết kiệm ước đạt 68.350 tỷ đồng, tăng 9,93% so với cuối năm 2022; tiền gửi thanh toán đạt 22.205 tỷ đồng, tăng 4,49% so với cuối năm 2022.
Dư nợ cho vay ước đến 30/6/2023 đạt 93.200 tỷ đồng, tăng 6,88% so với cuối năm 2022 (cùng kỳ năm trước tăng 13,52%). Trong đó, dư nợ ngắn hạn đạt 63.835 tỷ đồng (chiếm 68,49 % tổng dư nợ), tăng 8,5% so với cuối năm 2022; dư nợ trung dài hạn đạt 29.365 tỷ đồng (chiếm 31,51% tổng dư nợ), tăng 3,53% so với cuối năm 2022. Nhằm hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn, hiện nay các TCTD trên địa bàn triển khai thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ theo Thông tư số 02/2023/TT-NHNN của NHNN Việt Nam. Đây là một chính sách kịp thời, có tác dụng hỗ trợ trực tiếp cho doanh nghiệp trong thời điểm hiện nay còn đang gặp nhiều khó khăn do tác động của nền kinh tế, cung ứng nguồn hàng, việc tiêu thụ sản phẩm đình trệ.
Tín dụng đối với một số lĩnh vực ưu tiên 6 tháng đầu năm 2023 giảm so với cuối năm 2022, trong đó tín dụng đối với cho vay nông nghiệp nông thôn giảm 0,94%; cho vay thực hiện phương án kinh doanh hàng xuất khẩu giảm 12,4%, cho vay công nghiệp hỗ trợ giảm 17,87%.
Các tổ chức tín dụng trên địa bàn nghiêm túc chấp hành các quy định điều hành lãi suất của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, không có hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh, vượt trần. Lãi suất huy động tiền gửi bằng VNĐ ở mức 0,1-0,5%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng; 4,1-5% đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng; 5,2-7,2%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 6 tháng đến dưới 12 tháng; 5,7-8%/năm đối với tiền gửi kỳ hạn từ 12 tháng trở lên. Lãi suất huy động USD ở mức 0%/năm đối với tiền gửi của tổ chức và dân cư. Lãi suất cho vay VNĐ ngắn hạn phổ biến 4,5-10,1%/năm, trung dài hạn phổ biến 10-13,5%/năm. Lãi suất cho vay USD ngắn hạn phổ biến ở mức 3,7-4,5%/năm; trung, dài hạn phổ biến mức 6-6,1%/năm.
Tính đến 30/6/2023 nợ xấu ước tính 740 tỷ đồng, chiếm 0,79% tổng dư nợ. Hiện nay ngành ngân hàng đang tập trung các giải pháp tháo gỡ nợ xấu đặc biệt đối với 11 chủ tàu cho vay theo Nghị định 67/2014/NĐ-CP.
6 tháng đầu năm 2023, Tổng vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội ước đạt 21.310 tỷ đồng, tăng 37,97% so với cùng kỳ năm trước đã phản ánh tình hình sản xuất kinh doanh trong tỉnh có xu hướng phục hồi mạnh mẽ trong phát triển kinh tế - xã hội sau tác động tiêu cực của nhiều yếu tố trong và ngoài nước, trong đó sự trợ lại lớn của khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Những tháng đầu năm 2023, Hà Tĩnh tiếp tục triển khai có chiều sâu các hoạt động xúc tiến, mời gọi doanh nghiệp trong nước và quốc tế tìm hiểu, đầu tư trên địa bàn, tạo điều kiện thuận lợi để đẩy mạnh tiến độ các dự án trọng điểm, góp phần phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội. Tổng vốn đầu tư phát triển trên địa bàn tỉnh quí II/2023, ước đạt 12.004,32 tỷ đồng, tăng 28,99% so với quý trước và tăng 38,09% so với cùng kỳ năm trước.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2023 tổng vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội ước đạt 21.310 tỷ đồng, tăng 37,97% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: vốn nhà nước trên địa bàn ước đạt 4.087 tỷ đồng, tăng 38,87%; vốn đầu tư ngoài nhà nước ước đạt 9.039 tỷ đồng, giảm 6,14%; vốn đầu tư thực hiện khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ước đạt 8.184 tỷ đồng, tăng 184,88%.
Thời điểm hiện tại, các hạng mục quan trọng của dự án Nhà máy Nhiệt điện Vũng Áng II đang được tiến hành khẩn trương theo đúng tiến độ đề ra. Ngoài ra, các dự án lớn khác trong quá trình xây dựng như: Nhà máy Sản xuất Pin Lithium (TX Kỳ Anh) đã triển khai mặt bằng; Dự án xây dựng đường cao tốc Đức Thọ - Hàm nghi, Hàm Nghi - Vũng Áng, Vũng Áng - Bùng đã gần hoàn tất công tác kiểm đếm mặt bằng, đẩy nhanh công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng. Các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng trên địa bàn cũng đang được các nhà thầu tập trung triển khai thực hiện.
Tình hình xuất, nhập khẩu Hà Tĩnh tháng 6 có dấu hiệu chững lại, giảm cả so với tháng trước và so với cùng kỳ. Tuy nhiên tính chung 6 tháng đầu năm 2023, tổng kim ngạch vẫn đạt gần 3.123 triệu USD tăng 2,90% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: xuất khẩu tăng 39,07% trong khi nhập khẩu giảm 13,79%. Mặc dù cán cân xuất, nhập khẩu vẫn nhập siêu 456,6 triệu USD nhưng việc chuyển dịch cán cân hợp lý khi tăng xuất khẩu và giảm dần nhập khẩu, tạo ra nhiều hi vọng thời gian tới Hà Tĩnh sẽ trở thành 1 trong những tỉnh xuất siêu.
Kim ngạch xuất khẩu: Tháng 6 ước đạt 258,5 triệu USD, giảm 15,36% so với tháng trước nhưng vẫn tăng 27,55% so với cùng kỳ năm trước. Duy nhất chỉ có nhóm hàng dệt và may mặc có kim ngạch xuất khẩu tăng so với tháng trước (tăng 22,45%), tuy nhiên do mặt hàng này chiếm tỷ trọng không cao nên không ảnh hưởng nhiều tới tốc độ tăng xuất khẩu. Còn lại tất cả các nhóm hàng đều giảm khá sâu so với tháng trước, trong đó mặt hàng chủ đạo thép, phôi thép đạt gần 242,4 triệu USD giảm 16,62% so với tháng trước nhưng so với cùng kỳ mặt hàng này đã tăng đến 34,05%.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2023, kim ngạch xuất khẩu ước đạt gần 1.333,2 triệu USD, hầu hết các mặt hàng xuất khẩu đều có kim ngạch tăng đóng góp vào mức tăng chung 39,07% của xuất khẩu. Trong đó, xuất khẩu thép, phôi thép ước đạt 1.235,49 triệu USD (chiếm 92,67%) tăng 44,31%, theo dự báo của Hiệp hội Thép thế giới (WSA) vào cuối tháng 5/2023, nhu cầu thép toàn cầu sẽ bắt đầu phục hồi trong năm 2023 sau khi giảm 3,2% năm 2022. Đông Á và Đông Nam Á sẽ đóng góp phần lớn tăng trưởng nhu cầu năm 2023, bù đắp cho sự suy yếu ở Châu Âu và Hoa Kỳ, đây tiếp tục sẽ là tín hiệu khả quan cho việc xuất khẩu thép trong thời gian tới. Nhưng bên cạnh đó, thị trường xuất khẩu mặt hàng xơ, sợi dệt các loại tiếp tục gặp khó khăn từ tình hình thế giới, khiến kim ngạch xuất khẩu giảm 33,55% (tương ứng giảm 2,6 triệu USD) ảnh hưởng không nhỏ tới việc phát triển nhóm hàng này trong tương lai.
Kim ngạch nhập khẩu: Tháng 6/2023 ước đạt 300,5 triệu USD, giảm 3,79% so với tháng trước và giảm đến 36,70% (tương ứng giảm 174,24 triệu USD) so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân chủ yếu do Formosa giảm nhập khẩu nguyên liệu đầu vào phục vụ sản xuất (Nhập khẩu từ FHS ước đạt 248,30 triệu USD, giảm 7,65% so với tháng trước và giảm 38,24% tương ứng giảm 153,8 triệu USD so với cùng kỳ năm trước).
Tính chung 6 tháng đầu năm 2023, kim ngạch nhập khẩu ước đạt 1.789,8 triệu USD, giảm 13,79% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó chủ yếu là nhập khẩu nguyên liệu đầu vào phục vụ sản xuất Formosa đạt 1.476,4 triệu USD (chiếm 82,49%) giảm 20,39% so với cùng kỳ năm trước, những tháng tới khả năng Formosa sẽ tăng nhập khẩu nguyên liệu vì theo công bố Hiệp hội Thép thế giới (WSA) giá quặng sắt châu Á, thép phế, cuộn thép.. đều giảm, trong khi nhu cầu thép và giá thép Trung Quốc có thể tăng trở lại khiến việc xuất khẩu có dấu hiệu khả quan hơn.
Tháng 6 cũng như 6 tháng đầu năm 2023, tình hình giá cả trên thị trường khá ổn định, mức tăng ở mức không đáng kể. Các mặt hàng, dịch vụ có mức biến động mạnh chủ yếu tập trung ở các nhóm lương thực, thực phẩm, xăng dầu, vật liệu xây dựng, điện nước. Trong khi giá các mặt hàng thiết yếu như điện, xăng dầu đều đang có xu hướng tăng, thì mặt hàng thép xây dựng tiếp tục đà giảm do nhu cầu thép và giá thép thế giới giảm sâu, các mặt hàng lương thực sau khi thu hoạch vụ đông xuân thì giá cả cũng đã ổn định trở lại.
Tháng 6 năm 2023, chỉ số giá tiêu dùng CPI tăng 0,20% so với tháng trước và tăng 0,73% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Khu vực thành thị tăng 0,31% so với tháng trước, tăng 1,12% so với cùng kỳ năm trước; khu vực nông thôn tăng 0,15% so với tháng trước, tăng 0,56% so với cùng kỳ năm trước.Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính có sự biến động như sau:
06 nhóm hàng hóa chỉ số giá tăng so với tháng trước gồm: Hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,41% so với tháng trước, so với cùng tháng năm trước tăng 2,63%; đồ uống và thuốc lá tăng 0,08% so tháng trước, so cùng tháng năm trước tăng 1,10%; nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,45% so tháng trước, so cùng tháng năm trước tăng 3,40%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,07% so tháng trước, so cùng tháng năm trước tăng 0,52%; giao thông tăng 0,14% so với tháng trước, so với cùng tháng năm trước giảm 9,96%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,22% so với tháng trước, so với cùng tháng năm trước tăng 2,11%).
03 nhóm hàng hóa có chỉ số giá giảm so với tháng trướcgồm (Hàng may mặc, mũ nón, giày dép giảm 0,52% so tháng trước, so cùng tháng năm trước giảm 0,06%; thuốc và dịch vụ y tế giảm 0,03% so tháng trước, so cùng tháng năm trước tăng 0,44%; văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,07% so tháng trước, tăng 5,68% so cùng tháng năm trước) và có 02 nhóm không có biến động về chỉ số so với tháng trước gồm (Giáo dục; bưu chính viễn thông).
Một số yếu tố chính tác động đến thị trường tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ trong tháng 6/2023 đó là:(1) Ảnh hưởng thời tiết khắc nghiệt, nắng nóng, tác động đến nhu cầu thực phẩm, nước giải khát, đồ dùng gia đình, hàng điện máy tăng mạnh. (2) Giá xăng dầu được điều chỉnh tăng qua các kỳ điều chỉnh gần nhất ảnh hưởng trực tiếp đến giá nhóm hàng này đồng thời cũng gián tiếp tác động vào chí phí trung gian và giá bán lẻ của các mặt hàng khác. (3) Nhu cầu tiêu dùng điện và nước sinh hoạt tăng, lượng sử dụng càng nhiều giá bậc thang thanh toán điện, nước càng cao. Bên cạnh đó, giá điện cơ bản được điều chỉnh tăng thêm 3% tác động gộp làm giá điện sinh hoạt biến động mạnh.
Giá vàng bình quân trong tháng 6 ở mức 5.610 nghìn đồng/chỉ 9999, giảm 1,59% so với tháng trước, tăng 3,48% so với cùng tháng năm trước; giá đô la mỹ bình quân 2.348.495 đồng/100 USD tăng 0,19% so với tháng trước và giảm 1,50% so với cùng tháng năm trước.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2023, chỉ số giá tiêu dùng CPI tăng 1,85% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Khu vực thành thị tăng 1,59%; nông thôn tăng 1,97% so với cùng kỳ năm trước. Nếu phân theo nhóm ngành hàng: Hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 3,11%; đồ uống và thuốc lá tăng 0,9%; may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,84%; nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 4,93%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,52%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,46%; giao thông giảm 3,51%; bưu chính viễn thông giảm 0,76%; giáo dục tăng 2,35%; văn hoá, giải trí và du lịch tăng 3,92%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 1,58% so với cùng kỳ năm trước.
Nhìn chung, tình hình giá cả trên thị trường 6 tháng đầu năm cơ bản được kiểm soát, có một số mặt biến động tăng giá mạnh, cũng có nhóm biến động giảm khá sâu. Nguyên nhân chính do ảnh hưởng từ thị trường thế giới, yếu tố mùa vụ, thời tiết bên cạnh đó là sự điều hành của các cơ quan quản lý đối với nhóm nhiên liệu, điện sinh hoạt.
Chỉ số giá bán lẻ hàng hoá và dịch vụ trong tháng 7/2023 dự kiến tiếp tục tăng. Giá các mặt hàng và dịch vụ liên quan đến hoạt động lưu trú, lữ hành, ăn uống ngoài gia đình tiếp tục tăng do tính chất thời vụ mùa du lịch biển. Giá điện và nước sinh hoạt có thể tăng mạnh trong bối cảnh thời tiết nắng nóng kéo dài, một số mặt hàng khác có thể tiếp tục tăng như hàng điện lạnh, xăng dầu các loại.
6 tháng đầu năm 2023, nhiều doanh nghiệp trên địa bàn Hà Tĩnh đã tăng cường tuyển dụng lao động với mức lương hấp dẫn. Theo kết quả khảo sát của Trung tâm Dịch vụ việc làm Hà Tĩnh, có 157 doanh nghiệp đăng ký tuyển dụng với nhu cầu tuyển dụng hơn 8.000 lao động. Mặc dù nhu cầu tuyển dụng lớn song các doanh nghiệp vẫn không tuyển dụng đủ số lượng lao động, do chế độ, chính sách làm việc cho người lao động của doanh nghiệp ở Hà Tĩnh vẫn chưa đủ sức thu hút và giữ chân người lao động; mức lương vùng tại khu vực Hà Tĩnh khá thấp nên người lao động có xu hướng tìm kiếm các doanh nghiệp ngoại tỉnh như: Bình Dương, Hải Phòng, Đồng Nai, TP Hồ Chí Minh. Điều này đã làm cho tình hình lao động việc làm ở Hà Tĩnh có xu hướng quý II giảm so với quý trước.
Lực lượng lao động: Kết quả điều tra lao động việc làm, quý II năm 2023 lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên ước tính là 512.717 người, giảm 1,05% so với quý trước và tăng 0,65% so với cùng kỳ năm 2022. Trong tổng số, lực lượng lao động nam 262.417 người (chiếm 51,18% trong tổng số lượng lao động từ 15 tuổi trở lên); lực lượng lao động thuộc khu vực thành thị là 125.283 người (chiếm 24,44% lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên).Quý II năm 2023, có đến 53,88% dân số 15 tuổi trở lên tham gia lực lượng lao động, giảm 0,6 điểm phần trăm so với quý I/2023 và tăng 0,28 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm 2022. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động chênh lệch đáng kể giữa nam và nữ (lần lượt là 58,62% và 49,67%); tỷ lệ này cũng không đồng đều giữa các vùng, ở thành thị là 60,13%, cao hơn nông thôn là 8 điểm phần trăm.
Tính chung 6 tháng năm 2023, lực lượng lao động 15 tuổi trở lên ước tính là 515.427 người, tăng 0,22% so với cùng kỳ năm 2022; trong đó lực lượng lao động nam là 263.817 người, chiếm 51,18% trong tổng số lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên; lực lượng lao động thuộc khu vực thành thị là 125.901 người, chiếm 24,43%. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động 6 tháng năm 2023 là 54,16%, tăng 0,05 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm 2022. So sánh giữa thành thị và nông thôn, giữa nam và nữ cho thấy cũng có sự chênh lệch đáng kể: tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của nam là 58,93%, cao hơn 9 điểm phần trăm so với nữ; tỷ lệ tham gia lực lượng lao động khu vực thành thị là 60,42%, cao hơn 8,01 điểm phần trăm so với ở nông thôn.
Lao động có việc làm: Tổng số lao động từ 15 tuổi trở lên có việc làm ở Hà Tĩnh ước tính quý II năm 2023 là 490.748 người, chiếm 95,72% trong tổng số lượng lao động từ 15 tuổi trở lên; giảm 0,45% so với quý trước và tăng 0,3% so với cùng kỳ năm 2022. Trong tổng số, lao động có việc làm từ 15 tuổi trở lên khu vực thành thị là 124.332 người, chiếm 25,34% trong tổng số; lao động có việc làm ở nam giới là 248.380 người, chiếm 50,61%. Tỷ trọng lao động làm việc trong lĩnh vực Nông, lâm nghiệp, thủy sản chiếm 30,02% trong tổng số (tương ứng 147.332 người), giảm 0,35 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước; Công nghiệp - Xây dựng chiếm 29,03% (tương ứng 142.440 người), tăng 0,58 điểm phần trăm; Thương mại - Dịch vụ chiếm 40,95% (tương ứng 200.976 người), giảm 0,23 điểm phần trăm.
Tính chung 6 tháng năm 2023, lao động 15 tuổi trở lên có việc làm là 491.867 người, chiếm 95,43% tổng số lực lượng lao động 15 tuổi trở lên và tăng 0,52% so với cùng kỳ năm 2022. Trong tổng số, lao động có việc làm ở thành thị là 124.589 người, chiếm 25,33%; ở nam giới là 250.619 người, chiếm 50,95%.Tỷ trọng lao động làm việc trong lĩnh vực ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản 6 tháng năm 2023 chiếm 30,02% (tương ứng 147.677 người), giảm 0,69 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm 2022; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 28,85% (tương ứng 141.889 người), tăng 0,63 điểm phần trăm; còn khu vực dịch vụ chiếm 41,13% (tương ứng 202.301 người), tăng 0,06 điểm phần trăm.
Tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm: Quý II/2023 số người không có việc làm (thất nghiệp) là 21.969 người, chiếm 4,28% lực lượng lao động 15 tuổi trở lên và giảm 0,57 điểm phần trăm so quý trước. Trong đó, có đến 95,67% lao động thất nghiệp cư trú ở nông thôn (tương đương 21.018 người). Còn theo giới tính, lao động nam chiếm nhiều hơn nữ, chiếm 63,89 % (tương đương 14.037 người). Xét riêng trong độ tuổi lao động thì tỷ lệ thất nghiệp ước tính là 5,57%, tăng 0,05 điểm phần trăm so với quý trước và 0,18 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước.
Tính chung 6 tháng năm 2023, số người không có việc làm (thất nghiệp) ước tính là 23.561 người, chiếm 4,57% lực lượng lao động 15 tuổi trở lên, giảm 0,28 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, lao động thất nghiệp chủ yếu là khu vực nông thôn chiếm đến 94,43% (tương đương 22.248 người); còn ở nam giới là 56,02% (tương đương 13.199 người). Xét riêng trong độ tuổi lao động thì tỷ lệ thất nghiệp 6 tháng năm 2023 ước tính là 5,55%, giảm 0,14 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước.
Tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động ở Hà Tĩnh, ước tính quý II/2023 là 2,58%, giảm 0,09 điểm phần trăm so với quý trước và 0,1 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm 2022. Tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động 6 tháng năm 2023, ước tính là 2,62%, giảm 0,11 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước.
Tình hình giải quyết việc làm:Ngoài việc tổ chức các sàn giao dịch định kỳ, Trung tâm Dịch vụ việc làm Hà Tĩnh đã kết nối với một số doanh nghiệp tổ chức các phiên giao dịch việc làm, sàn giao dịch việc làm; đồng thời triển khai chương trình hợp tác xuất khẩu lao động, mở thêm nhiều lớp đào tạo tay nghề cho lao động Hà Tĩnh đã tạo điều kiện cho hàng nghìn người đi làm việc tại các tỉnh bạn và nước ngoài.
Quý II/2023, số người được giải quyết việc làm và xuất khẩu lao động là 7.529 người, tăng 43,82% so với quý I/2023 và tăng 22,62% so với cùng kỳ năm 2022. Trong quý II/2023, lao động được giải quyết việc làm thông qua các chương trình phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh giảm 8,2% (tương ứng giảm 237 người) so với quý I/2023, lao động đi làm việc ngoại tỉnh tăng 53,44% (tăng 714 người), xuất khẩu lao động tăng 180,44% (tăng 1.817 người).
6 tháng đầu năm 2023, số người được giải quyết việc làm và xuất khẩu lao động là 12.764 người, tăng 1,18% so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó: lao động được giải quyết việc làm thông qua các chương trình phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh 5.547 người, chiếm 43,46% trong tổng số, giảm 4,15% so với cùng kỳ năm trước; lao động đi làm việc ngoại tỉnh 3.386 người, chiếm 26,53%, giảm 14,24% so cùng kỳ năm trước; xuất khẩu lao động 3.831 người, chiếm 30,01%, tăng 33,02% so cùng kỳ năm trước.Thị trường xuất khẩu lao độngchủ yếu làm việc tại Đài Loan là 1.823 người, chiếm 47,59% trong tổng số người đi xuất khẩu lao động; tiếp đến là Nhật Bản 1.222 người, chiếm 31,9%; Hàn Quốc 468 người, chiếm 12,22%; còn lại các nước khác là 318 người, chiếm 8,29%.ở Hà Tĩnh chủ yếu tập trung làm việc tại Đài Loan là 1.823 người, chiếm 47,59% trong tổng số người đi xuất khẩu lao động; tiếp đến là Nhật Bản 1.222 người, chiếm 31,9%; Hàn Quốc 468 người, chiếm 12,22%; còn lại các nước khác là 318 người, chiếm 8,29%.
2. Đời sống dân cư và đảm bảo an sinh xã hội
Đời sống dân cư: Quý II và trong 6 tháng năm 2023 tình hình dịch Covid-19 tiếp tục được kiểm soát tốt, các cơ sở sản xuất kinh doanh, hoạt động công nghiệp, xây dựng thương mại, dịch vụ đi vào hoạt động ổn định,tình hình về lao động và việc làm ở Hà Tĩnh có phần khởi sắc. Trong 6 tháng năm 2023 trên địa bàn tỉnh chỉ xảy ra 01 vụ thiên tai, giảm 04 vụ so với cùng kỳ năm trước; các dịch bệnh đối với chăn nuôi cơ bản được kiểm soát, việc tái đàn và phục hồi chăn nuôi đang tiếp tục được thực hiện; sản xuất và thu hoạch lúa Vụ Đông Xuân được; nuôi trồng và khai thác thủy sản thuận lợi. Bên cạnh đó, Hà Tĩnh tiếp tục triển khai các chương trình, đề án giảm nghèo với mục tiêu là giảm nghèo bền vững, hạn chế tái nghèo, cải thiện đời sống, tăng thu nhập cho người dân đặc biệt là ở khu vực nông thôn; tạo điều kiện cho người dân tiếp cận thuận lợi các dịch vụ xã hội cơ bản về y tế, giáo dục, an ninh lương thực, an toàn nhà ở, nước sạch sinh hoạt và vệ sinh; tăng cường kết nối về hạ tầng, đào tạo nghề và hỗ trợ giải quyết việc làm nên 6 tháng năm 2023 đời sống các tầng lớp dân cư trên địa bàn ổn định, toàn tỉnh không xảy ra tình trạng thiếu đói trong dân cư.
Công tác đảm bảo an sinh xã hội: 6 tháng đầu năm 2023, toàn tỉnh đã trao tặng khoảng 218.554 suất quà cho các đối tượng người có công, hộ nghèo, người cao tuổi, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn và các đối tượng bảo trợ xã hội với tổng số tiền là 79,265 tỷ đồng. Cụ thể: Tặng quà cho người có công khoảng 104.628 suất quà trị giá 27,866 tỷ đồng; Tặng quà cho hộ nghèo, hộ cận nghèo khoảng 39.599 suất quà trị giá 22,269 tỷ đồng; Tặng quà cho người cao tuổi khoảng 31.865 suất quà trị giá 12,310 tỷ đồng; Tặng quà cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn khoảng 19.316 suất quà trị giá 7,689 tỷ đồng; tặng quà cho các đối tượng bảo trợ xã hội và đối tượng khác khoảng 23.146 suất quà trị giá 9,129 tỷ đồng. Cấp khoảng 18.003 thẻ bảo hiểm y tế cho hộ nghèo, 34.716 thẻ bảo hiểm y tế cho hộ cận nghèo, 159.939 thẻ bảo hiểm y tế cho trẻ em dưới 6 tuổi, 47.491 thẻ bảo hiểm y tế cho người có công và 184.116 các loại thẻ khác. Số nhà tình nghĩa, nhà tình thương xây mới là 198 nhà, kinh phí khoảng 14.152 triệu đồng; Số nhà tình nghĩa, nhà tình thương sửa chữa là 14 nhà, kinh phí khoảng 395 triệu đồng. Nhìn chung công tác đảm bảo an sinh xã hội trên địa bàn Hà Tĩnh được triển khai kịp thời; các cấp, các ngành đã làm tốt công tác huy động nguồn lực, tổ chức thăm hỏi, tặng quà gia đình người có công với các mạng, đối tượng bảo trợ xã hội, người nghèo, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn được quan tâm chu đáo.
Năm học 2022-2023 với sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp, sự nỗ lực của cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên, ngành Giáo dục Hà Tĩnh đã gặt hái được nhiều kết quả cao trong thời gian qua.
Tại kỳ thi học sinh giỏi quốc gia, Hà Tĩnh tiếp tục gặt hái thành công về số lượng và chất lượng giải. Trong số 69/84 học sinh dự thi đoạt giải (đạt tỷ lệ 82,14%), có 08 giải nhất, 25 giải nhì, 19 giải ba và 17 giải khuyến khích, với kết quả đó Hà Tĩnh là tỉnh đứng thứ 2 cả nước về số lượng học sinh đoạt giải nhất (sau Hà Nội) và thứ 5 về số học sinh đạt giải; đặc biệt có 02 em đạt điểm số thủ khoa, gồm: 01 em môn Toán với điểm số 32 và 01 em môn Hóa với tổng điểm 32,375. Trong kỳ thi chọn đội tuyển Olympic quốc tế, Hà Tĩnh có 19 học sinh được tham gia vòng 2 và có 02 em được trúng tuyến: em Đinh Cao Sơn (lớp 12 Hóa) vào đội tuyển dự thi Olympic Hóa học quốc tế (diễn ra vào tháng 7/2023 tại Thụy Sỹ) và em Trần Hoài Nam (lớp 12 Toán 2) vào đội tuyển dự thi Olympic Tin học châu Á - Thái Bình Dương.
Về Kỳ thi học sinh giỏi tỉnh, Hà Tĩnh có 2.837 em đạt giải các môn văn hóa, trong đó có 263 giải nhất, 762 giải nhì, 988 giải ba và 824 giải khuyến khích. Ngoài ra, có 207 học sinh các khối lớp 9, 10, 11, 12 được đặc cách học sinh giỏi cấp tỉnh vì đạt chứng chỉ IELTS, trong đó có 45 em giải nhất, 77 giải nhì và 85 học sinh đạt giải ba.
Cũng trong thời gian này, Hà Tĩnh đã tổ chức thành công kỳ thi vào lớp 10 trung học phổ thông (THPT) năm học 2023-2024, với chỉ tiêu phân luồng 70% học sinh vào THPT (giảm 2% so với năm trước). Trong tổng số thí sinh dự thi vào lớp 10 năm nay, có 15.824 thí sinh có nguyện vọng thi vào các trường THPT công lập không chuyên, 1.094 thí sinh có nguyện vọng thi vào trường THPT Chuyên Hà Tĩnh. Ban Chỉ đạo kỳ thi đã bố trí 36 điểm thi, với 722 phòng thi với đầy đủ cơ sở vật chất, các trang thiết bị, đồng thời triển khai các phương án đảm bảo an ninh trật tự trong và ngoài khu vực thi. Các ngành liên quan và các địa phương đã phát huy tối đa tinh thần trách nhiệm, bố trí lực lượng, tập trung mọi điều kiện tốt nhất đảm bảo kỳ thi diễn ra an toàn, nghiêm túc.
4. Tình hình dịch bệnh, ngộ độc thực phẩm
Tháng 6 là thời gian nắng nóng gay gắt trên diện rộng đã ảnh hưởng khá nhiều đến đời sống, sức khỏe của người dân, đặc biệt là với người già và trẻ nhỏ.Cơ quan chức năng đã khuyến cáo người dân dân nên có kế hoạch sinh hoạt, làm việc hợp lý; áp dụng các biện pháp bảo vệ sức khỏe để đề phòng sốc nhiệt. Chủ động lựa chọn, sử dụng,bảo quản thực phẩm đúng cách, tránh nguy cơ gây ra tình trạng ngộ độc thực phẩm.Đồng thời, Công tác kiểm tra ATTP tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ ăn uống trên địa bàn luôn được triển khai đồng bộ và quyết liệt; công tác giám sát phát hiện nguy cơ được duy trì, không để xảy ra các vụ ngộ độc thực phẩm lớn và tử vong do ngộ độc thực phẩm.
Trong tháng 6/2023, không có vụ ngộ độc tập thể nào xảy ra, chỉ có 102 ca ngộ độc đơn lẻ và không có người chết vì ngộ độc; chỉ tăng 36 ca ngộ độc đơn lẻ (tăng 54,55%) so với tháng trước và tăng 04 ca ngộ độc đơn lẻ (tăng 4,08%) so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm 2023, có 01 vụ ngộ độc tập thể (làm 07 người bị ngộ độc) và 440 ca ngộ độc đơn lẻ và không có người chết vì ngộ độc; số vụ ngộ độc tập thể không thay đổi (nhưng tăng 03 người bị ngộ độc), tăng 95 ca ngộ độc đơn lẻ (tăng 27,54%) và số người chết không thay đổi so với cùng kỳ năm trước.
Tình hình dịch bệnh Covid-19: Mặc dù tình hình dịch bệnh trên địa bàn tỉnh đã được kiểm soát, tuy nhiên cần cảnh giác với các yếu tố nguy cơ sau: thời tiết nắng nóng gay gắt; tình trạng tập trung đông người nhất là bắt đầu mùa lễ hội, du lịch, tắm biển; một số bộ phận người dân, chủ quan, coi nhẹ dịch bệnh, không thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch theo quy định; phát sinh tình trạng một số ca mắc COVID-19 tự phát hiện, không khai báo nên cơ quan chuyên môn khó quản lý, kiểm soát. Tổng số ca mắc COVID-19, tính từ ngày 01/01/2022 đến ngày 16/6/2023 là 58.765ca, lũy kế từ 04/6/2021 đến ngày 16/6/2023 là 59.715 ca mắc.
Tình hình dịch bệnh khác: Tháng 6/2023, trên địa bàn chỉ có một số ca bệnh đơn lẻ, cụ thể: 01 ca sốt xuất huyết, 01 ca sốt rét, 21 ca mắc bệnh quai bị, 45 ca mắc lỵ trực trùng, 27 ca mắc lỵ a míp, 41 ca mắc bệnh thủy đậu, 1.037 ca mắc bệnh cúm, 01 ca mắc bệnh do adeno, 22 ca chân tay miệng, 177 ca tiêu chảy, 11 ca viêm gan vi rút khác và không có người chết do các bệnh trên.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2023, trên địa bàn cũng chỉ có một số ca bệnh đơn lẻ, không tạo thành dịch, cụ thể: 26 ca sốt xuất huyết (tăng 10 ca so với cùng kỳ năm trước), 3 ca sốt rét (cùng kỳ năm trước không xảy ra), 101 ca mắc bệnh quai bị (tăng 35 ca), 166 ca mắc lỵ trực trùng (tăng 43 ca), 157 ca mắc lỵ a míp (giảm 20 ca), 150 ca mắc bệnh thủy đậu (tăng 43 ca), 7.252 ca mắc bệnh cúm (giảm 593 ca), 09 ca mắc bệnh do adeno (cùng kỳ năm trước không xảy ra), 124 ca chân tay miệng (cùng kỳ năm trước có 04 ca), 1.339 ca tiêu chảy (tăng 73 ca), 47 ca viêm gan vi rút khác (tăng 07 ca) và không có người chết do các bệnh trên
Công tác phòng chống HIV/AIDS:Để hạn chế nhiễm HIV/AIDS, cần tiếp tục tăng cường các hoạt động dự phòng lây nhiễm HIV, xét nghiệm phát hiện và điều trị sớm HIV/AIDS, cung cấp các dịch vụ toàn diện về phòng, chống HIV/AIDS cho người dân đặc biệt cho những người dễ tổn thương, người có hành vi nguy cơ cao.
Trong tháng 6/2023, có 04 người nhiễm mới HIV, 01 người chuyển thành AIDS và không có người chết vì AIDS; giảm 03 người nhiễm HIV, 07 người chuyển thành AIDS, số người chết vì AIDS không thay đổi so với tháng trước và tăng 03 người nhiễm HIV, giảm 02 người chết vì AIDS, còn số người chuyển thành AIDS không thay đổi so với cùng kỳ năm trước.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2023, có 32 người nhiễm mới HIV, 25 người chuyển thành AIDS và 03 người chết vì AIDS; tăng 20 người nhiễm HIV, 19 người chuyển thành AIDS và 01 người chết vì AIDS so với cùng kỳ năm trước.
Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm: Để chủ động bảo đảm an toàn thực phẩm, sự phối hợp liên ngành phải được tăng cường và có hiệu quả; các văn bản chỉ đạo điều hành phải được ban hành kịp thời, sát thực tế; các hoạt động cần được triển khai đồng bộ. Đồng thời, Công tác kiểm tra ATTP tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ ăn uống trên địa bàn phải được triển khai đồng bộ và quyết liệt; công tác giám sát phát hiện nguy cơ được duy trì, không để xảy ra các vụ ngộ độc thực phẩm lớn và tử vong do ngộ độc thực phẩm.
Trong tháng 6/2023, không có vụ ngộ độc tập thể nào xảy ra, chỉ có 102 ca ngộ độc đơn lẻ và không có người chết vì ngộ độc; chỉ tăng 36 ca ngộ độc đơn lẻ (tăng 54,55%) so với tháng trước và tăng 4 ca ngộ độc đơn lẻ (tăng 4,08%) so với cùng kỳ năm trước.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2023, có 01 vụ ngộ độc tập thể (làm 07 người bị ngộ độc) và 440 ca ngộ độc đơn lẻ và không có người chết vì ngộ độc; số vụ ngộ độc tập thể không thay đổi (nhưng tăng 3 người bị ngộ độc), tăng 95 ca ngộ độc đơn lẻ (tăng 27,54%) và số người chết không thay đổi so với cùng kỳ năm trước.
5. Hoạt động văn hóa - thể thao
Hoạt động văn hóa: 6 tháng đầu năm 2023, các địa phương đã triển khai công tác tuyên truyền với nhiều hình thức phong phú, góp phần tuyên truyền các sự kiện chính trị, văn hóa, các ngày lễ kỷ niệm của quê hương, đất nước, đặc biệt là tuyên truyền các hoạt động kỷ niệm 93 Ngày năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, mừng Xuân Quý Mão; Hội nghị công bố Quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến 2050 và xúc tiến đầu tư vào Hà Tĩnh năm 2023. Toàn tỉnh thay mới hơn 5.000m2 tranh cổ động tấm lớn, pano, áp phích các loại và hàng trăm lượt khẩu hiệu, băng rôn, cờ Tổ quốc. Trong đó, Trung tâm Văn hóa điện ảnh tỉnh thực hiện 830 m2 tranh tuyên truyền trực quan tại các cụm cổ động Bến Thủy, Đèo Ngang và thành phố Hà Tĩnh; thực hiện 44 buổi tuyên truyền cải cách hành chính tại cơ sở; tổ chức 05 đợt phim mừng Đảng, mừng Xuân năm 2023; 23 buổi chiếu phim phục vụ học sinh và nhân dân tại Rạp 26-3 chào mừng kỷ niệm các ngày lễ lớn.
Tham gia trình diễn nghệ thuật và trưng bày “Hành trình sắc màu di sản văn hóa phi vật thể đại diện các vùng miền” tại Festival “Về miền Quan họ - 2023” tại Bắc Ninh; tổ chức Lễ khai hội chùa Hương Tích, mở đầu năm du lịch Hà Tĩnh 2023; tham gia Liên hoan trình diễn di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO ghi danh của Việt Nam lần thứ Nhất vào dịp Giỗ Tổ Hùng Vương năm 2023 tại tỉnh Phú Thọ; tổ chức tốt tuần phim phục vụ nhân dân; chương trình văn nghệ tuyên truyền lưu động phục vụ nhân dân trước, trong và sau Tết Nguyên đán năm 2023 tại các địa phương, đặc biệt ưu tiên biểu diễn phục vụ các chiến sỹ, đồng bào vùng sâu, vùng xa.
Tổ chức chương trình nghệ thuật sử thi phục vụ “Lễ Tưởng niệm 55 năm Ngày hy sinh của 53 Liệt sĩ và Khánh thành Khu Di tích Lịch sử Cầu Nhe”; chương trình biểu diễn tại Hội nghị công bố Quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến 2050 và xúc tiến đầu tư vào Hà Tĩnh năm 2023; Công diễn vở ca kịch Dân ca Nghệ Tĩnh “Lời Bác dặn trước lúc đi xa” nhân kỷ niệm 133 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 - 19/5/2023) thu hút sự quan tâm, theo dõi của đông đảo cán bộ, đảng viên và Nhân dân. Trung tâm Văn hóa Điện ảnh tỉnh tham gia Hội thi tuyên truyền lưu động “Biển và Hải đảo Việt Nam” tại thành phố Hải Phòng đạt 05 chương (02 HCV, 03 HCB và 01 Giấy khen cá nhân).
Công tác kiểm tra, thanh tra văn hóa: Được thực hiện thường xuyên và theo kế hoạch, đặc biệt là trong các dịp lễ, hội. 6 tháng đầu năm 2023, đã thực hiện 03 cuộc kiểm tra theo kế hoạch tại 87 cơ sở kinh doanh dịch vụ văn hóa, thể thao và du lịch; lập 60 biên bản kiểm tra, nhắc nhở 05 doanh nghiệp có hành vi không tự tháo dỡ bảng quảng cáo thương mại tấm lớn đã hết hạn ghi trong thông báo sản phẩm quảng cáo; đình chỉ 02 công ty lữ hành, 03 điểm du lịch tự phát. Ban hành 08 quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo thẩm quyền đối với 05 tổ chức và 03 cá nhân với tổng số tiền xử phạt là 55,50 triệu đồng
+ Thể thao thành tích cao: 6 tháng đầu năm 2023, đoàn thể thao Hà Tĩnh đã tham gia 12 giải, giành 73 huy chương các loại (gồm: 32 HCV-24 HCB-17 HCĐ). Đặc biệt, tại đại hội thể thao Đông Nam Á - Seagames 32 tổ chức tại Campuchia, Hà Tĩnh có 06 vận động viên tham gia, giành được 08 huy chương (gồm 05 HCV, 01 HCB, 02 HCĐ). Cũng trong thời gian này, đội bóng chuyền nam Hà Tĩnh thi đấu đạt giải Ba tại giải Bóng chuyền Cúp Hoa Lư, hiện đang xếp thứ 3 bảng A sau lượt đi tại giải Bóng chuyền Vô địch Quốc gia. Câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp Hồng Lĩnh Hà Tĩnh tham gia thi đấu ở giải Vô địch Quốc gia sau 9 vòng đấu tạm thời xếp thứ 6 tại giải Vô địch Quốc gia; Đội bóng đá U17 Hồng Lĩnh Hà Tĩnh thi đấu Vòng Chung kết U17 Quốc gia năm 2023 tại Hưng Yên, giành được Huy chương Bạc.
+ Thể thao quần chúng: Các huyện, thị xã, thành phố đã tổ chức nhiều giải thể thao, trò chơi dân gian mừng Đảng, mừng Xuân Quý Mão 2023, các hoạt động thể thao nhân khai trương du lịch biển; trung bình mỗi xã tổ chức được 1-2 giải; mỗi huyện tổ chức 2 - 3 giải. Đặc biệt hướng dẫn, chỉ đạo huyện Can Lộc tổ chức các hoạt động thể thao tại Lễ Khai hội Chùa Hương Tích "Mở đầu năm du lịch Hà Tĩnh 2023”; huyện Hương Sơn tổ chức giải Đua thuyền nam và nữ.
Bên cạnh đó, Hà Tĩnh còn tuyên truyền về “Ngày chạy Olympic vì sức khỏe toàn dân”. Chỉ đạo tổ chức điểm “Ngày chạy Olympic vì sức khỏe toàn dân” ở 02 đơn vị địa phương (huyện Lộc Hà, thị xã Kỳ Anh) thu hút hàng nghìn người dân tham gia. Phối hợp với các Sở, ngành, địa phương tổ chức thành công các giải: Bóng chuyền nữ, Việt dã và Bóng chuyền Nam thanh niên toàn tỉnh năm 2023, Đua thuyền và giải Quần vợt Cúp Truyền hình toàn tỉnh năm 2023.
Tham gia giành 09 huy chương (01 HCV- 06 HCB – 02 HCĐ) tại giải thể thao khuyết tật toàn quốc, xếp thứ 10/19 đoàn tham gia.
Trước tình hình tai nạn giao thông diễn biến phức tạp và đang có dấu hiệu gia tăng, Hà Tĩnh đã triển khai nhiều giải pháp quyết liệt nhằm đảm bảo trật tự an toàn giao thông, kéo giảm tai nạn giao thông (TNGT) từ 5-10% trên cả 3 tiêu chí (số vụ, số người chết và người bị thương). Để thực hiện được mục tiêu đề ra, Công an tỉnh chỉ đạo Cảnh sát giao thông, công an cấp huyện, cấp xã, xây dựng kế hoạch, tập trung tuần tra, xử lý các hành vi vi phạm như: phóng nhanh vượt ẩu, chở quá số người quy định, không đội mũ bảo hiểm, say rượu bia điều khiển phương tiện; siết chặt công tác quản lý, phương tiện, người lái và đào tạo sát hạch, cấp giấy phép lái xe; tăng cường công tác bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông, hành lang ATGT, kịp thời khắc phục sửa chữa hư hỏng kết cấu, tổ chức giao thông; tăng cường phối hợp trong công tác thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm về tải trọng xe, kiên quyết xử lý nghiêm các hành vi vi phạm.
Tháng 6 năm 2023 (từ ngày 15/5-14/6/2023) xảy ra 19 vụ tai nạn đường bộ, làm 14 người chết, 08 người bị thương, thiệt hại 250 triệu đồng; giảm 03 vụ, 01 người chết, 04 người bị thương so với tháng trước và tăng 09 vụ, 06 người chết, 06 người bị thương so với cùng kỳ năm trước.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2023 (từ ngày 15/12/2022-14/6/2023) đã xảy ra 87 vụ tai nạn đường bộ, làm 68 người chết, 34 người bị thương, thiệt hại 1.180 triệu đồng; tăng 41 vụ, 29 người chết, 15 người bị thương so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân xảy ra tai nạn là không làm chủ tốc độ và đi sai phần đường do lái xe sử dụng rượu bia quá mức quy định.
Trong tháng, tai nạn đường sắt, đường thủy không xảy ra và không thay đổi so với cùng kỳ năm trước.
7. Bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ
+ Tình hình cháy: từ ngày 15/5-14/6/2023 đã xảy 04 vụ cháy, không làm thiệt hại về người, ước tính giá trị thiệt hại tài sản 100 triệu đồng; giảm 04 vụ so với tháng trước và giảm 02 vụ so với cùng kỳ năm trước. Tính từ 15/12/2022-14/6/2023 xảy ra 40 vụ, không làm thiệt hại về người, thiệt hại về tài sản 385 triệu đồng; tăng 23 vụ, giảm 1 người chết, số người bị thương không thay đổi so với cùng kỳ năm trước.
+ Nổ: từ ngày 15/12/2022 - 14/6/2023 không xảy ra vụ nổ nào và không thay đổi so với cùng kỳ năm trước.
Công tác bảo vệ môi trường: Thời gian qua, cấp ủy, chính quyền tỉnh Hà Tĩnh tập trung lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế, đồng thời tăng cường công tác bảo vệ môi trường nhằm phát triển bền vững. Tuy vậy, nhận thức về bảo vệ môi trường của nhiều cá nhân, đơn vị, doanh nghiệp còn hạn chế, chưa tự giác tuân thủ pháp luật về bảo vệ môi trường. Cụ thể:
Tháng 6/2023 (tính từ ngày 15/5-14/6/2023) đã phát hiện 28 vụ và đã xử lý 21 vụ, với tổng số tiền xử phạt 48,05 triệu đồng; số vụ đã phát hiện không thay đổi, tăng 05 vụ đã xử lý, giảm 214,89 triệu đồng số tiền xử phạt so với tháng trước và giảm 06 vụ đã phát hiện, tăng 8 vụ đã xử lý, tăng 4,16 triệu đồng số tiền xử phạt so với cùng kỳ năm trước. Vi phạm môi trường đã phát hiện trong tháng chủ yếu là vận chuyển cát trái phép, sử dụng xung kích điện đánh bắt thủy sản trái phép... phát hiện 23 vụ (chiếm 82,14%), đã xử lý 17 vụ với số tiền xử phạt 31,80 triệu đồng.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2023 (từ 15/12/2022-14/6/2023) đã phát hiện 418 vụ, xử lý 339 vụ, tổng số tiền xử phạt 1.209,71 triệu đồng; giảm 90 vụ đã phát hiện (giảm 17,72%), giảm 14 vụ đã xử lý (giảm 3,97%), số tiền xử phạt giảm 103,15 triệu đồng (giảm 7,86%) so với cùng kỳ năm trước.
Trong tháng xảy ra 01 vụ thiên tai (sét đánh ở huyện Cẩm Xuyên), làm 01 người chết; tăng 01 vụ, tăng 01 người chết so với tháng trước và giảm 02 vụ, giảm 01 người chết, giảm 17 nhà hư hỏng, giá trị thiệt hại giảm 100 triệu đồng so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm 2023, xảy ra 01 vụ thiên tai, làm 01 người chết; giảm 04 vụ, giảm 01 người chết, giảm 512 ha lúa, 153 ha hoa màu bị thiệt hại, giảm 17 ngôi nhà bị hư hỏng, giá trị thiệt giảm 7.968 triệu đồng so với cùng kỳ năm trước.
Trên đây là một số tình hình kinh tế - xã hội quý II và 6 tháng đầu năm 2023 trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh./.
Link nguồn: http://thongkehatinh.gov.vn/ChiTietTin.aspx?id=485