Giấy khen tiếng Anh là certificate of merit phiên âm là səˈtɪf.ɪ.kətəvˈmer.ɪt, là ghi nhận lại thành tích của sự cố gắng của một cá nhân hay tập thể có một kết quả sứng đáng.
Bước 2: Chuẩn bị hồ sơ cấp mới giấy phép lao động
Căn cứ theo Điều 9 Nghị định 152/2020/NĐ-CP quy định về hồ sơ xin cấp giấy phép lao động như sau:
Lưu ý: Các giấy tờ cấp ở nước ngoài hoặc bởi cơ quan Đại diện ngoại giao nước ngoài tại Việt Nam phải được hợp pháp hóa lãnh sự và dịch thuật công chứng sang tiếng Việt.
Giấy phép lao động cho người nước ngoài là gì?
Giấy phép lao động cho người nước ngoài là văn bản cho phép người nước ngoài làm việc hợp pháp tại Việt Nam. Trên giấy phép lao động có ghi rõ thông tin người lao động, tên và địa chỉ của tổ chức mà người đó làm việc, vị trí làm việc.
Hồ sơ đăng ký xin giấy xác nhận cấp Visa
- Tờ khai đề nghị cấp thị thực (visa) theo quy định của nước cần nhập cảnh. Tại đây, người nộp đơn sẽ phải điền các thông tin cơ bản như thông tin cá nhân; thông tin về chuyến đi; thông tin công việc; thông tin tài chính; loại visa cần xin cấp; cam kết và ký tên vào phần cuối của văn bản. Đơn xin cấp visa thường được trình bày theo mẫu có sẵn, do cơ quan có thẩm quyền của nước phát hành visa cung cấp.
- Hộ chiếu (hay còn gọi là Passport) có thể ví như chứng minh thư của bạn khi ở nước ngoài. Và thường visa sẽ được dán ngay lên hộ chiếu (trừ trường hợp cấp rời). Bạn sẽ phải xuất trình hộ chiếu khi nhập cảnh hoặc xuất cảnh ở bất kỳ quốc gia nào. Cần lưu ý rằng, hộ chiếu phải còn thời hạn ít nhất là 6 tháng.
- Giấy tờ thông tin cá nhân: Xác nhận lại những thông tin cá nhân đã cung cấp cũng như lý lịch tư pháp của bạn. Ví dụ như chứng minh thư nhân dân, thẻ căn cước công dân. - Giấy tờ về thân nhân: Cung cấp rõ thêm các thông tin về những người thân trong gia đình có thể liên hệ trong trường hợp bất ngờ xảy ra, ví dụ như sổ hộ khẩu, giấy chứng nhận độc thân, giấy đăng ký kết hôn.
- Giấy tờ chứng minh công việc. Việc chứng minh công việc thường được gộp với chứng minh tài chính, nhằm khai báo cho cơ quan có thẩm quyền về nghề nghiệp, chức danh, vị trí làm việc của người làm hồ sơ, có thể là Hợp đồng lao động; Quyết định bổ nhiệm; bảng lương,... Việc chứng minh công việc nhằm đảm bảo các thông tin khác là chính xác và hợp lý, bao gồm cả mục đích nhập cảnh, khả năng tài chính cũng như những lý do chính trị khác.
- Giấy tờ chứng minh tài chính. Các giấy tờ chứng minh tài chính có thể kể đến như: Tài khoản tiết kiệm đã gửi được một thời hạn nhất định, có một số tiền nhất định; các giấy tờ chứng minh quyền sở hữu đối với các tài sản khác: giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy đăng ký xe ô tô...
- Giấy tờ chứng minh mục đích nhập cảnh. Đây chính là một thông tin quan trọng, nhất là khi chuyển đổi mục đích thị thực. Tùy vào mục đích nhập cảnh mà bạn sẽ phải chuẩn bị giấy tờ và hồ sơ sao cho phù hợp.
Bước 4: Nhận giấy phép lao động sau được cấp
Người lao động có thể lựa chọn nhận giấy phép trực tiếp, qua bưu điện hoặc thông qua cổng dịch vụ công trực tuyến.
Trong vòng 5 ngày làm việc kể từ khi nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội hoặc Sở Lao động – Thương binh và Xã hội sẽ hoàn thành việc cấp giấy phép lao động cho người lao động nước ngoài.
Nếu hồ sơ chưa đạt yêu cầu, cơ quan chức năng sẽ có thông báo bằng văn bản, nêu rõ lý do để người nộp hồ sơ bổ sung hoặc điều chỉnh.
Xem thêm: Cách thay đổi địa điểm trong giấy phép lao độn
Câu hỏi: Tuyên thệ quốc tịch Mỹ bao gồm những yếu tố chính nào?
Trả lời: Tuyên thệ quốc tịch bao gồm cam kết hỗ trợ và bảo vệ Hiến pháp của Hoa Kỳ, từ bỏ sự trung thành với bất kỳ quốc gia nước ngoài nào, và sẵn sàng mang vũ khí thay mặt cho Hoa Kỳ khi cần thiết. Ngoài ra, người tuyên thệ cũng có thể thể hiện sẵn lòng thực hiện dịch vụ dân sự cho đất nước khi cần.
Nhắc đến văn học sinh thái, nhiều người nghĩ ngay đến những trang viết về thiên nhiên, môi trường. Điều đó có phần đúng, nhưng chưa đủ và dễ gây hiểu lầm.
Theo các nhà nghiên cứu, văn học sinh thái là loại văn học lấy chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái làm cơ sở tư tưởng, lấy lợi ích chỉnh thể của hệ thống sinh thái làm giá trị cao nhất để khảo sát và biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và truy tìm nguồn gốc xã hội của nguy cơ sinh thái.
Nhắc đến văn học sinh thái, nhiều người nghĩ ngay đến những trang viết về thiên nhiên, môi trường. Điều đó có phần đúng, nhưng chưa đủ và dễ gây hiểu lầm. Văn học miêu tả thiên nhiên có từ xa xưa, gắn với văn minh nông nghiệp cổ xưa. Còn văn học sinh thái như quan niệm thời nay thì cần phải phản ánh được những tác động tiêu cực từ tiến trình văn minh hóa quá tải. Chẳng hạn như tác phẩm Dòng suối im lặng (Silent Spring, 1962) của Rachel Carson. Trong cuốn sách này Carson đã đưa ra những tác hại nghiêm trọng của hóa chất công nghiệp xả thải ra sông suối và ngấm vào đất khiến cho môi sinh lâm nguy và gây tác hại khủng khiếp.
Đề tài của văn học sinh thái rất rộng. Tác phẩm có thể không miêu tả cảnh vật tự nhiên, thể hiện tình yêu tự nhiên nhưng chỉ cần có thái độ không đồng tình với các hành vi phá hoại sinh thái, phơi bày căn nguyên văn hóa tư tưởng của nguy cơ sinh thái là có thể được xem là văn học sinh thái. Nói như giáo sư Lawrence Buell của Đại học Harvard, đó là nền văn học “viết vì một thế giới lâm nguy”. Vì thế, không nên đồng nhất văn học miêu tả thiên nhiên với văn học sinh thái.
Văn học sinh thái Việt Nam bắt đầu khởi sắc vào khoảng cuối thập niên 80 của thế kỉ XX. Nguyễn Minh Châu với tác phẩm Sống mãi với cây xanh, Trần Duy Phiên với bộ ba truyện ngắn Kiến và người, Mối và người, Nhện và người cùng tiểu thuyết Trăm năm còn lại đã đặt những viên gạch đầu tiên cho văn học sinh thái Việt Nam. Nội dung của những tác phẩm này xoáy vào tệ nạn khai thác tài nguyên cạn kiệt, vào chiến công và sự hi sinh của những anh hùng thời bình trong cuộc chiến bảo vệ rừng, bảo vệ tài nguyên hay sự tương tác giữa tính cách con người và môi trường sống của các loại động vật trong thiên nhiên.
Theo nhà phê bình sinh thái Cheryll Glotfelty, một tác phẩm văn học sinh thái được nhận diện khi tác giả từ bỏ cách viết truyền thống, đó là cách viết hướng đến quyền lợi của con người, lấy con người làm trung tâm. Văn học sinh thái lấy tự nhiên làm trung tâm, đích hướng tới là trân trọng tự nhiên, bảo vệ tự nhiên.
Dù dòng văn học này có vẻ mới mẻ với nhiều bạn đọc, song trên thực tế đã có nhiều tác phẩm thành công, giúp cất lên tiếng nói đa chiều, sâu sắc về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Tiêu biểu như tiểu thuyết Cá hồi của nhà văn Hàn Quốc Ahn Do Hyun. Trong vòng quay tồn tại, cá hồi được sinh ra ở sông, sống ở biển, rồi lại lội ngược dòng tìm về sông - nơi mình đã sinh ra, để đẻ trứng. Như bao đồng loại, hai cô cậu cá hồi Mắt Trong và Ánh Bạc ngày ngày phải đối mặt với khó khăn trong cuộc sinh tồn. Trải qua nhiều chặng đường gian nan, vượt thoát những cơn sóng dữ ở biển Bering Bắc Thái Bình Dương, hai cô cậu cá, trong sự trưởng thành vừa đớn đau vừa tự hào, đã dần tháo gỡ những thắc mắc về nguồn gốc của loài, về câu hỏi ý nghĩa cuộc đời, về cách nhìn nhận thế giới xung quanh. Thông qua những ẩn dụ về hành trình trở về nguồn cội của loài cá hồi, tác phẩm rung lên hồi chuông về cách nhận thức và ứng xử của con người đối với tự nhiên, phản ánh yêu cầu và tâm thức tất yếu của thời đại khi con người đang gánh chịu sự giận dữ và đáp trả của thiên nhiên.
Tác phẩm đáng chú ý khác là Cuộc đời của Pi của nhà văn người Canada Yann Martel. Cuốn tiểu thuyết kể về sự đối đầu với thiên nhiên để sinh tồn trong những ngày bị trôi dạt trên biển Thái Bình Dương của một cậu bé Ấn Độ 16 tuổi, người sống sót duy nhất sau vụ đắm tàu. Câu chuyện dành khá nhiều trang viết về cơn thịnh nộ của thiên nhiên. Từ đó cho thấy con người thực sự bé nhỏ khi đứng trước mẹ thiên nhiên với sức mạnh vô cùng tận. Ý thức về môi trường sinh thái cũng từng được thể hiện rõ trong các sáng tác văn chương của Mĩ Latinh như Trăm năm cô đơn của Gabriel García Márquez, Vương quốc trần gian của Alejo Carpentier...
Ngay từ thế kỉ XIX đã có những nhà văn mạnh dạn đi ngược dòng với số đông khi tạo ra một tổng thể hài hòa và cân bằng giữa con người và thiên nhiên trong tác phẩm của mình. Ví như tiểu thuyết Giữa lòng tăm tối của Joseph Conrad xuất bản năm 1899. Cuốn sách nói về nhân vật Marlow, từ nhỏ anh ta ham phiêu lưu khám phá, bị mê hoặc bởi những câu chuyện về châu Phi và dòng sông Congo và anh ta quyết tới vùng đất đó bằng được. Anh chạy vạy xin việc và cuối cùng cũng được phân nhiệm vụ đi ngược dòng sông để đưa một nhân vật quan trọng tên là Kurtz đang bị ốm trở về. Trên hành trình đó, Marlow chứng kiến tham vọng vơ vét tài nguyên thiên nhiên của chế độ thực dân tàn bạo...
Ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay, vấn đề sinh thái đã nổi lên trong một số tác phẩm tiêu biểu như: Chó Bi, đời lưu lạc (Ma Văn Kháng), Trăm năm còn lại (Trần Duy Phiên), Thập giá giữa rừng sâu (Nguyễn Khắc Phê), Sông (Nguyễn Ngọc Tư), Gần như là sống (Đỗ Phấn), Dòng sông chết (Thiên Sơn), Thiên đường ảo vọng (Nguyễn Trí), Săn cá thần (Đặng Thiều Quang), Biển và chim bói cá (Bùi Ngọc Tấn), Chúa đất (Đỗ Bích Thúy), Con chim joong bay từ A đến Z (Đỗ Tiến Thụy), Linh điểu, Đắm bầy virus (Nguyễn Văn Học)… Các tác phẩm đề cập đến những vấn đề mang tính chất thời sự liên quan đến những vấn đề sống còn trước nguy cơ hủy hoại môi sinh.
Trước hiệu ứng của văn học sinh thái trong phong trào bảo vệ môi trường, nhà văn người Mĩ Victor Montejo cho rằng số lượng tác phẩm văn chương liên quan đến môi trường ngày càng gia tăng đã thể hiện trách nhiệm của người cầm bút. Một tác phẩm văn học sinh thái không chỉ đơn thuần miêu tả, mà quan trọng hơn là phải có đầy đủ tư tưởng và góc nhìn sinh thái. Từ đó, chúng ta lí giải nguyên nhân của các sự vụ hủy hoại môi trường để thúc đẩy ý thức trách nhiệm của con người trong tiến trình bảo vệ tự nhiên. Ngoài ra, bằng sức tưởng tượng và sự nhạy cảm của nhà văn, tác phẩm hoàn toàn có thể dự báo thảm họa, cảnh báo các nguy cơ, khiến con người thức tỉnh và hướng tới việc biết trân trọng tự nhiên một cách tự nguyện.
Theo hầu hết các nhà phê bình sinh thái, để nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của việc bảo vệ thiên nhiên, những báo cáo khoa học với các con số khô cứng là chưa đủ. Cần phải tác động vào nhận thức và cảm xúc của con người để họ có trách nhiệm với môi trường từ ngay trong tâm thức. Và đây chính là lợi thế của văn học. Chính điều này đã tạo nên thành công và ý nghĩa thiết thực của văn học sinh thái trong việc đóng góp cho phong trào bảo vệ môi trường. Hi vọng trong thời gian tới, các nhà văn Việt Nam sẽ cho ra đời nhiều hơn những tác phẩm văn học sinh thái vừa có sự lôi cuốn về nghệ thuật viết, vừa bao chứa được những vấn đề môi sinh thiết yếu, góp thêm những tiếng nói hữu hiệu và thuyết phục cho phong trào bảo vệ tự nhiên tại Việt Nam và toàn cầu./.
BÙI THỊ PHƯƠNG LAN (vannghequandoi.com.vn)
Nhu cầu giao thương và đi lại giữa các quốc gia ngày càng được phổ biến. Điều này làm cho yêu cầu về thị thực để đạt được mục tiêu này trở nên cấp thiết hơn. Để thực hiện điều này, Visa đã được phát triển, hỗ trợ việc kiểm soát thương mại quốc tế và việc đi lại của cư dân các quốc gia khác. Kể từ đó, sự cần thiết của việc hoàn thành các thủ tục làm visa cho người nước ngoài cũng dần được chú trọng. Hiện nay, nhiều quốc gia đã thực hiện cấp giấy xác nhận visa cho người nước ngoài thay vì đóng nhãn dán lên hộ chiếu. Vậy Giấy xác nhận cấp visa là gì? Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu trong bài viết dưới đây.
Visa – hay còn gọi là thị thực, là loại giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp, cho phép người nước ngoài nhập cảnh Việt Nam (Theo quy định của Luật nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam). Như vậy, visa hay thị thực là bằng chứng xác nhận rằng một người nào đó được phép nhập cảnh hoặc xuất cảnh ở quốc gia cấp thị thực.